1. Tại điểm a khoản 2 Điều 14 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP
ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự
nghiệp công lập quy định về Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: "Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: Để
đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, sửa chữa cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết
bị, phương tiện làm việc; phát triển năng lực hoạt động sự nghiệp; chi
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ; đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên
môn cho người lao động trong đơn vị; mua bản quyền tác phẩm, chương trình; góp
vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước để tổ
chức hoạt động dịch vụ sự nghiệp công theo chức năng, nhiệm vụ được giao và các
khoản chi khác (nếu có)"
Như vậy, nội dung chi, tính chất nguồn chi từ Quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp đã được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 14, Nghị định
số 60/2021/NĐ-CP; đồng thời, việc xác định các khoản chi khác cần đảm bảo phù hợp
với tính chất của quỹ và pháp luật hiện
hành có liên quan.
Tại điểm b khoản 3 Điều 42 Nghị định số
151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật quản lý, sử dụng tài sản công quy định: "Tiền thuê đất đã nộp ngân sách nhà nước, tiền nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đã trả được xác định có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước trong
các trường hợp sau: b) Đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng Quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp để nộp tiền thuê đất, trả tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất".
Theo quy định nêu
trên, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp để
nộp tiền thuê đất, trả tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và được xác
định là tiền thuê đất đã nộp có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
2. Ngoài
ra, từ ngày Luật Đất đai 2024 có hiệu lực (ngày 01/8/2024), đơn vị sự nghiệp
công lập được giao đất không thu tiền sử dụng đất; trường hợp có nhu cầu sử dụng
một phần hoặc toàn bộ diện tích được giao để sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch
vụ thì được lựa chọn chuyển sang hình thức nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê
đất hàng năm đối với phần diện tích đó. Tuy nhiên, vướng mắc phát sinh liên
quan đến trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập thuộc đối tượng phải chuyển sang
thuê đất và được miễn tiền thuê đất theo quy định của Luật Đất đai 2013 nhưng
chưa chuyển sang thuê đất hoặc đã chuyển sang thuê đất nhưng chưa hoặc chậm làm
thủ tục để được miễn tiền thuê đất thì đơn vị sự nghiệp phải nộp tiền thuê đất
đối với thời gian phải chuyển sang thuê đất theo quy định của pháp luật. Tại
Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ quy định về tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất quy định việc xử lý chuyển tiếp đối với trường hợp của các
đơn vị sự nghiệp nêu trên thuộc trường hợp sử dụng đất vào mục đích được miễn
tiền thuê đất nhưng cơ quan thuế chưa ban hành thông báo nộp tiền thuê đất thì
nay không phải nộp tiền thuê đất đối với thời gian chưa hoặc chậm làm thủ tục để
được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của phap luật trước ngày Luật Đất
đai năm 2024 có hiệu lực thi hành; tuy nhiên, đối với trường hợp cơ quan thuế
đã ban hành thông báo nộp tiền thuê đất và thông báo chậm nộp tiền thuê đất (nếu
có) mà đơn vị sự nghiệp công lập chưa nộp hoặc chưa nộp đủ theo thông báo thì
đơn vị sự nghiệp phải báo cáo Bộ, ngành, địa phương chủ quản để tổng hợp, đề xuất
phương án xử lý và gửi về Bộ Tài chính để tổng hợp trình Chính phủ báo cáo Quốc
hội xem xét quyết định.