Hỏi đáp CSTC

Hỏi:
Tại sao không được hoàn thuế thu nhập cá nhân? Tên người nộp thuế: Nguyễn Thị Loan (Mã số thuế: 8456209531) Ngày 04/4/2024 tôi có gửi Tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân năm 2021 (mẫu 02/QTT-TNCN) lên hệ thống Thuế điện tử của Tổng cục Thuế. Năm 2021, cá nhân tôi có 04 nguồn thu nhập, trong đó có số thuế TNCN được khấu trừ tại Ngân Hàng TMCP Tiên Phong là 5.585.313 đồng. Trong hồ sơ tôi đã cung cấp chứng từ khấu trừ thuế TNCN của Ngân Hàng TMCP Tiên Phong và thư xác nhận thu nhập của Công ty Cổ phần PBO niềm tin việt. Sau đó 02 ngày, cán bộ thuế của Chi cục Thuế khu vực An Biên - An Minh yêu cầu tôi cung cấp Thư xác nhận thu nhập của tất cả các nơi mà tôi làm việc, đây là nội dung vô lý vì quy định của pháp luật không có yêu cầu cung cấp Thư xác nhận thu nhập và do nghỉ việc đã lâu tôi cũng không thể xin lại xác nhận thu nhập từ các nơi đã làm việc Đến ngày 11/4/2024, Chi cục Thuế khu vực An Biên - An Minh đã ra thông báo số 22/TB-CCTKV-KĐT về việc không chấp nhận Hồ sơ đề nghị hoàn thuế. Lý do: Thiếu chứng từ khấu trừ thuế TNCN. Điều này cũng vô lý vì chỉ khi khấu trừ thuế thì tổ chức chi trả mới xuất chứng từ khấu trừ thuế TNCN. Đề nghị cơ quan thuế giải trình lý cho tôi bằng văn bản lý do vì sao không thực hiện hoàn thuế cho tôi, việc yêu cầu tui cung cấp thư xác nhận thu nhập và chứng từ khấu trừ thuế là dựa trên cơ sở pháp lý nào?
19/04/2024
Trả lời:

- Căn cứ điểm b khoản 8 Điều 11 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế;

- Căn cứ khoản 2 Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân;

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 42Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29/9/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế.

Căn cứ các quy định trên, tổ chức, cá nhân trả các khoản thu nhập đã khấu trừ thuế theo hướng dẫn tại khoản 1, Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC phải cấp chứng từ khấu trừ thuế theo yêu cầu của cá nhân bị khấu trừ.

Đối với cá nhân không ký hợp đồng lao động hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng: cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân trả thu nhập cấp chứng từ khấu trừ cho mỗi lần khấu trừ thuế hoặc cấp một chứng từ khấu trừ cho nhiều lần khấu trừ thuế trong một kỳ tính thuế.

Đối với cá nhân ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên: tổ chức, cá nhân trả thu nhập chỉ cấp cho cá nhân một chứng từ khấu trừ trong một kỳ tính thuế.

Trường hợp độc giả Nguyễn Thị Loan năm 2021 có thu nhập từ tiền lương, tiền công tại bốn nơi, ngày 04/4/2024 có gửi Tờ khai quyết toán thuế TNCN mẫu số 02/QTT-TNCN cho Chi cục Thuế khu vực An Biên – An Minh qua hệ thống thuế điện tử của Tổng cục Thuế, tổng thu nhập chịu thuế trên Tờ khai quyết toán thuế là 74.093.513 đồng, khớp đúng với số liệu tại cơ sở dữ liệu quản lý thuế của ngành, có chứng từ khấu trừ thuế TNCN với số thuế đã khấu trừ là 5.585.313 đồng thì được xem xét hoàn thuế TNCN theo quy định.

Cục Thuế đã làm việc với Chi cục Thuế khu vực An Biên – An Minh để giải quyết hoàn thuế TNCN cho độc giả Nguyễn Thị Loan.

Do đó, Cục Thuế đề nghị độc giả Nguyễn Thị Loan liên hệ với Chi cục Thuế khu vực An Biên – An Minh để được hướng dẫn hoàn thuế TNCN theo quy định của Luật Quản lý thuế.

          Cục Thuế thông báo cho độc giả Nguyễn Thị Loan được biết./.

Gửi phản hồi: