Tại khoản 2, khoản 7 Điều 11 Luật Khiếu nại 2011, quy
định về các trường hợp không thụ lý giải quyết:
“2. Quyết định hành chính, hành vi hành chính
bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
khiếu nại…
7.. Khiếu nại đã có quyết
định giải quyết khiếu nại lần hai;”
Trên cơ sở nội dung trên, trường hợp ông Phúc là người
đứng tên trong Đơn phản ánh nhưng không liên quan trực tiếp đến quyền lợi đối với
nội dung khiếu nại của ông Bùi Văn Thiết và đơn khiếu nại của ông Bùi Văn Thiết
đã được Cục Thuế giải quyết khiếu nại (lần
hai) theo Quyết định số 1298/QĐ-CTBTH ngày 09/9/2022 về việc giải quyết khiếu
nại của ông Bùi Văn Thiết, nên các Đơn phản ánh của ông Phúc nêu trên thuộc trường
hợp không thụ lý giải quyết theo quy định Luật Khiếu nại.
Tuy nhiên, liên quan đến nội dung ông Phúc đã nêu
trong các Đơn phản ánh, Phiếu hỏi đáp chính sách thuế gửi đến Cục Thuế và đối
chiếu với chính sách thu tiền sử dụng đất theo quy định hiện hành, Cục Thuế có
ý kiến trao đổi với ông Phúc như sau:
1. Về tiền chậm
nộp.
Tại điểm c khoản 1 Điều 14 Nghị định 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
Quy định về thu tiền sử dụng đất, có nêu:
“…
c) Quá thời
hạn quy định tại Điểm a, Điểm b Khoản này, người sử dụng đất chưa nộp đủ số
tiền sử dụng đất theo Thông báo thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền chưa
nộp theo mức quy định của pháp luật về quản lý thuế trừ trường hợp có
đơn xin ghi nợ tiền sử dụng đất đối với những trường hợp được ghi nợ”.
Tại điểm a khoản 2 Điều 59
Luật Quản lý thuế 2019 quy định về xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế, có
nêu: “2. Mức tính tiền chậm
nộp và thời gian tính tiền chậm nộp được quy định như sau:a) Mức tính tiền chậm nộp bằng 0,03%/ngày tính trên số
tiền thuế chậm nộp”.
Tại điểm a
khoản 1 Điều 42 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy
định về tính tiền chậm nộp tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn: “1. Tính tiền chậm nộp tiền phạt
a) Tổ chức,
cá nhân chậm nộp tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn thì bị tính tiền
chậm nộp tiền phạt theo mức 0,05%/ngày tính trên số tiền phạt chậm nộp”.
Đối chiếu với quy định trên, người sử dụng đất chưa nộp
đủ số tiền sử dụng đất theo thời gian quy định trong thông báo của cơ quan Thuế
thì phải nộp tiền chậm nộp theo mức quy định là 0,03%/ngày. Đối với trường hợp
chậm nộp tiền phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn thì tiền chậm nộp
tiền phạt theo mức 0,05%/ngày tính trên số tiền phạt chậm nộp, Vì vậy, nội dung
ông Phúc phản ánh trong Đơn ghi ngày 05/10/2022 thể hiện nội dung “…Như vậy, theo Nghị định 125 thì người sử dụng
đất được cấp Giấy chứng nhận nhưng chậm nộp tiền sử dụng đất so với hạn quy định
thì sẽ tính tiền chậm nộp theo mức
0,05%/ngày (trước đây là 0,03%)” là chưa phù hợp theo quy định pháp luật
thuế.
2. Chính
sách thu tiền sử dụng đất.
- Đơn ghi nợ tiền sử dụng đất ghi ngày 15/7/2017 của
ông Bùi Văn Thiết được CN Văn phòng ĐKĐĐ Phan Thiết xác nhận ghi nợ vào ngày 16/5/2017 với nội dung “Nợ tiền sử dụng đất, số tiền 316.500.000 đồng
(ba trăm mười sáu triệu năm trăm ngàn đồng) theo Thông báo nộp tiền sử dụng đất
số 856/17/TB-CCT ngày 09/5/2017 của Chi cục Thuế thành phố Phan Thiết” trên
Giấy Chứng nhận quyền SDĐ, quyền SHN ở và tài sản khác gắn liền với đất do UBND
Phan Thiết cấp ngày 22/5/2017 (ghi
nợ trước ngày Nghị định số 79/2019/NĐ-CP ngày 26/10/2019 của Chính phủ về
sửa đổi Điều 16 NĐ số 45/2014/NĐ-CP có hiệu lực thi hành là ngày 10/12/2019).
- Tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị định số 79/2019/NĐ-CP ngày
26/10/2019 của Chính phủ quy định về “Xử lý chuyển tiếp”:
1.
Hộ gia đình, cá nhân đã được ghi nợ tiền sử dụng đất trên Giấy chứng nhận theo
quy định của pháp luật từng thời kỳ mà đến trước ngày Nghị định này có hiệu lực
thi hành mà chưa thanh toán hết nợ tiền sử dụng đất thì thực hiện như sau:…
“b) Đối
với hộ gia đình, cá nhân đã được ghi nợ tiền sử dụng đất từ ngày 01 tháng 3 năm
2016 đến trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thanh
toán tiền sử dụng đất còn nợ theo số tiền ghi trên Giấy chứng nhận đã được xác
định theo đúng quy định tại Nghị định số 45/2014/NĐ-CP trong thời hạn 05 năm kể
từ ngày ghi nợ tiền sử dụng đất.
Quá
thời hạn 05 năm kể từ ngày ghi nợ tiền sử dụng đất thì hộ gia đình, cá nhân
phải thanh toán số tiền còn nợ theo chính sách và giá đất tại thời điểm trả nợ”.
Trên cơ sở các quy định trên, trường hợp ghi nợ của
ông Bùi Văn Thiết trước thời điểm Nghị định số 79/2019/NĐ-CP ngày 26/10/2019
của Chính phủ về sửa đổi Điều 16 NĐ số 45/2014/NĐ-CP có hiệu lực thi hành (ngày
10/12/2019); ngày 10/6/2022, ông Bùi Văn Thiết mới có đơn đề nghị thanh toán
nợ gửi Chi cục Thuế TP Phan Thiết nên đã quá thời hạn 5 năm theo chính sách quy
định về thanh toán nợ so với xác nhận của VPĐKĐĐ Phan Thiết là 25 ngày
(10/6/2022 – 16/5/2017) hoặc cũng quá thời hạn 5 năm so với GCNQSDĐ của UBND
Phan Thiết là 19 ngày (10/6/2022 – 22/5/2017) nên cơ quan Thuế áp dụng
giá đất và chính sách tại thời điểm trả nợ theo điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị định
số 79/2019/NĐ-CP ngày 26/10/2019 của Chính phủ để giải quyết khiếu nại là đúng
quy định.
Đối với nội dung Đơn phản ánh ghi ngày 06/10/2022 của
ông Phúc viện dẫn căn cứ pháp lý theo điểm b khoản 5 Điều 1 Nghị định số
79/2019/NĐ-CP ngày 26/10/2019 của Chính phủ đối với trường hợp thanh toán nợ tiền
sử dụng đất của ông Bùi Văn Thiết là không phù hợp vì lý do điều khoản này chỉ
áp dụng đối với trường hợp ghi nợ và thanh toán nợ tiền sử dụng đất sau khi
Nghị định số 79/2019/NĐ-CP ngày 26/10/2019 của Chính phủ có hiệu lực thi
hành (từ ngày 10/12/2019 trở về sau).
Trân trọng chào
Ông./.