Hỏi: |
Câu hỏi của độc giả hỏi về xác nhận thời gian thực tế làm kiểm toán, Cục Quản lý giám sát Kế toán, Kiểm toán - Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
Tại câu hỏi, độc giả có đề cập đến xác nhận công tác do Tổng công ty cấp hoặc giấy ủy quyền của Tổng công ty cho chi nhánh tuy nhiên độc giả không nêu rõ “Tổng công ty” có phải là doanh nghiệp kiểm toán và “xác nhận công tác” có phải là giấy xác nhận thời gian thực tế làm kiểm toán không?
1. Trường hợp “Tổng công ty” mà độc giả đề cập là doanh nghiệp kiểm toán được Bộ Tài chính cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán và “xác nhận công tác” là giấy xác nhận thời gian thực tế làm kiểm toán theo Thông tư số 202/2012/TT-BTC ngày 19/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn về đăng ký, quản lý và công khai danh sách kiểm toán viên hành nghề kiểm toán (Thông tư số 202):
Khoản 3, Điều 4 Thông tư số 202 quy định một trong những thành phần hồ sơ đăng ký hành nghề kiểm toán là Giấy xác nhận về thời gian thực tế làm kiểm toán theo mẫu quy định tại Phụ lục số 04/ĐKHN ban hành kèm theo Thông tư số 202. Theo quy định của mẫu số 04/ĐKHN, Giấy xác nhận về thời gian thực tế làm kiểm toán phải có xác nhận của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán.
Điểm c, Khoản 4 Điều 3 Thông tư số 202 quy định: “Thời gian thực tế làm kiểm toán phải có xác nhận của người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán nơi kiểm toán viên đã thực tế làm việc. Trường hợp doanh nghiệp kiểm toán nơi kiểm toán viên làm việc đã giải thể, phá sản, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức sở hữu thì phải có xác nhận của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán phù hợp với thời gian mà kiểm toán viên đã làm việc tại doanh nghiệp kiểm toán đó. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán thời điểm đó đã không còn hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán độc lập thì phải có Bản giải trình kèm theo các tài liệu chứng minh về thời gian thực tế làm kiểm toán như bản sao sổ bảo hiểm xã hội, bản sao hợp đồng lao động.”
Do vậy, khi nộp hồ sơ đăng ký hành nghề kiểm toán, một trong các thành phần hồ sơ phải có theo quy định là “Giấy xác nhận về thời gian thực tế làm kiểm toán” do người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán nơi kiểm toán viên đã thực tế làm việc xác nhận.
Trường hợp doanh nghiệp kiểm toán nơi kiểm toán viên đã làm việc thực tế trước đây bị giải thể, phá sản, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức sở hữu và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán này tại thời điểm mà kiểm toán viên đã thực tế làm việc không còn hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán độc lập và kiểm toán viên không thể xin được giấy xác nhận thời gian thực tế làm kiểm toán thì yêu cầu phải có Bản giải trình kèm theo các tài liệu chứng minh về thời gian thực tế làm kiểm toán như bản sao sổ bảo hiểm xã hội, bản sao hợp đồng lao động.
2. Trường hợp
“Tổng công ty” mà độc giả đề cập không phải là doanh nghiệp kiểm toán được Bộ
Tài chính cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán thì xác
nhận của “Tổng công ty” sẽ không có giá trị để tính thời gian thực tế làm kiểm
toán cho kiểm toán viên.
Đề
nghị độc giả nghiên cứu thực hiện./.