- Đơn vị chủ trì: Ban Chính sách tài chính công
- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Tô Kim Huệ
- Năm giao nhiệm vụ: 2021/Mã số: 2021-09-Đ1
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ra đời rất lâu trong lịch sử thuế khóa và được coi là loại thuế quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. Cho đến nay, thuế TNCN đã trở thành một loại thuế cơ bản, giữ vai trò trung tâm trong hệ thống thuế của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Ngoài mục tiêu phân phối lại, thuế TNCN còn là hình thức thuế có tỷ trọng đóng góp cao trong tổng nguồn thu NSNN.
Tại Việt Nam, chính sách thuế TNCN đang từng bước được hoàn thiện, góp phần điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội, đồng thời tạo nguồn thu cho NSNN. Ngày 21/11/2007, Quốc hội khóa XII ban hành Luật thuế TNCN và chính thức có hiệu lực từ tháng 01/2009 và đến nay, Luật Thuế TNCN đã được sửa đổi 3 lần (Luật số 04/2007/QH12; Luật số 26/2012/QH13; Luật số 71/2014/QH13). Việc ban hành Luật thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn là một bước tiến trong nỗ lực cải cách thuế TNCN ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý góp phần kiểm soát thu nhập.
Số thu từ thuế TNCN có tăng kể từ khi Luật Thuế TNCN năm 2007 có hiệu lực thi hành tuy nhiên vẫn thấp (khoảng 6 - 7% tổng thu NSNN) và đang có xu hướng chậm lại trong những năm gần đây. Vấn đề thất thu về thuế TNCN, mà đặc biệt là thu nhập về chuyển nhượng bất động sản, thu nhập của hộ cá nhân kinh doanh, trong đó có kinh doanh thương mại điện tử đang còn nhiều bất cập trong công tác xác định thu nhập, quản lý thuế TNCN hiện nay.
Trong bối cảnh nền kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, bước sang giai đoạn 2021 - 2030, bên cạnh những thuận lợi như kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước cải thiện… thì nền kinh tế nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức, các yếu tố nền tảng như thế chế, hạ tầng, nguồn nhân lực để đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn thấp so với yêu cầu… Trong bối cảnh mới, các mục tiêu chiến lược về kinh tế - xã hội đặt ra cũng đầy thách thức (GDP bình quân 7%/năm, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt 7.500 USD/người…), đòi hỏi một hệ thống chính sách, bao gồm chính sách thuế phù hợp, giúp thực hiện thành công, hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Việc cải cách chính sách thuế TNCN, từng bước đưa sắc thuế này thành sắc thuế chủ đạo trong tổng thu NSNN là yêu cầu cần thiết nhằm đảm bảo tính ổn định, bền vững của hệ thống chính sách thuế. Chính vì vậy, việc triển khai đề tài “Nghiên cứu sửa đổi chính sách thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam” là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý thuyết, thực tiễn về chính sách thuế TNCN và khảo cứu kinh nghiệm của một số nước, đề tài đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi chính sách thuế TNCN tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách thuế TNCN.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tổng thể chính sách thuế TNCN của Việt Nam và một số quốc gia khác, từ năm 2007 đến năm 2020.
4. Kết quả nghiên cứu
(1) Đề tài đã khái quát hóa những vấn đề chung về thuế TNCN và chính sách thuế TNCN. Theo đó, chính sách thuế TNCN được hiểu là những quan điểm, đường lối của Nhà nước liên quan đến sử dụng công cụ thuế TNCN trong hệ thống các chính sách của mình. Hệ thống quan điểm, đường lối đó thể hiện ở việc nhìn nhận vai trò của thuế TNCN, mục tiêu sử dụng công cụ thuế, phạm vi tác động, tỷ lệ điều tiết, định hướng trong dài hạn… nhằm làm cho công cụ thuế TNCN phát huy tốt nhất các vai trò của nó theo chiến lược và chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước. Ba nguyên tắc trong việc xây dựng, sửa đổi chính sách thuế TNCN gồm: (i) Đảm bảo tính minh bạch, đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và chặt chẽ. Vì thuế TNCN khá phức tạp nên nguyên tắc này cần được đảm bảo để hạn chế hành vi trốn thuế; (ii) Đảm bảo được yêu cầu đặt ra trong việc huy động nguồn thu cho NSNN, đồng thời phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ; (iii) Đảm bảo tính công bằng đối với người nộp thuế và xã hội. Thuế TNCN đóng vai trò phân phối lại thu nhập trong xã hội, giảm bớt sự cách biệt quá lớn về mức sống giữa các cá nhân trong xã hội nhưng cũng cần khuyến khích sự phấn đấu làm việc của người lao động. Các quy định phải đảm bảo cho thu nhập thực tế sau khi nộp thuế của các đối tượng nộp thuế tương xứng với công sức lao động và sự đóng góp của họ.
(2) Đề tài đã nghiên cứu xu hướng cải cách chính sách thuế TNCN tại một số quốc gia và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Mỗi quốc gia, tùy theo đặc điểm địa lý, truyền thống dân tộc, quan điểm, mục tiêu kinh tế - xã hội của quốc gia mình đề ra những quy định cụ thể, phù hợp hiện trạng nền kinh tế đất nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong xu thế tất yếu của hội nhập, chính sách thuế TNCN của mỗi quốc gia đã bắt đầu thay đổi từng bước để bắt kịp xu thế hội nhập toàn cầu. Trọng tâm cải cách chính sách thuế được các nước hướng tới là: hướng tới biểu thuế suất lũy tiến để đảm bảo vai trò phân phối, điều tiết thu nhập của thuế TNCN; đơn giản biểu thuế suất; giãn khoảng cách thu nhập chịu thuế ở mức thuế suất thấp, giảm mức thuế suất cao nhất của thuế TNCN; tăng ngưỡng thu nhập tính thuế và tăng mức giảm trừ… để phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
(3) Qua phân tích đánh giá thực trạng chính sách thuế TNCN hiện nay của Việt Nam, đề tài đã cho thấy thuế TNCN ngày càng trở thành sắc thuế quan trọng trong hệ thống chính sách thuế ở nước ta, góp phần đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư; đảm bảo động viên, khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập, làm giàu chính đáng; là công cụ quan trọng để thực hiện mục tiêu bù đắp thiếu hụt ngân sách trong điều kiện nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm; chính sách thuế TNCN ngày càng minh bạch, đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan và phù hợp với thực tiễn, góp phần đảm bảo quyền lợi và tạo thuận lợi cho người nộp thuế và từng bước góp phần thực hiện kiểm soát thu nhập của dân cư. Bên cạnh đó, chính sách thuế TNCN được điều hành chủ động, linh hoạt, góp phần tháo gỡ khó khăn cho người dân trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Mặc dù vậy, chính sách thuế TNCN hiện nay ở Việt Nam đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế, thể hiện ở các điểm sau đây:(i) Về thu nhập chịu thuế, quy định thu nhập chịu thuế TNCN chỉ bao gồm 10 loại thu nhập sẽ bị giới hạn và không linh hoạt, quy định hiện hành chưa bao quát hết các khoản thu nhập thuộc diện phải điều tiết, bên cạnh đó, một số quy định về thu nhập chịu thuế còn chưa rõ ràng; (ii) Về thu nhập được miễn thuế, các khoản thu nhập được miễn thuế TNCN còn khá nhiều và chưa có sự tương đồng về mức điều tiết thuế của cá nhân có thu nhập từ kinh doanh và cá nhân có thu nhập từ tiền lương tiền công; (iii) Về giảm trừ gia cảnh, quy định mức giảm trừ gia cảnh bằng số tuyệt đối có nhiều ưu điểm nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định; (iv) Về biểu thuế, nghiên cứu đánh giá khoảng cách giữa các bậc thuế trong biểu thuế lũy tiến còn cao, chính sách hiện nay chưa đánh thuế lũy tiến đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, thuế suất toàn phần đối với thu nhập từ trúng thưởng còn thấp và chưa có sự tương đồng trong điều chỉnh về mức thuế suất giữa thu nhập của cá nhân và thu nhập của doanh nghiệp.
(4) Từ kinh nghiệm quốc tế và thực trạng chính sách thuế TNCN của Việt Nam, đặc biệt là những tồn tại, hạn chế về quy định chính sách thuế TNCN, đề tài đã đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện chính sách thuế TNCN, trong đó tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau: (i) Về thu nhập chịu thuế: cần quy định mọi khoản thu nhập đều đưa vào diện điều chỉnh của chính sách thuế TNCN, đồng thời có bước đi và giải pháp xử lý để đạt được yêu cầu về tính khả thi. Có thể sử dụng các yếu tố kỹ thuật lập pháp mềm dẻo để phân loại thành nhóm như loại cần thu ngay, loại tạm thời chưa thu hoặc loại tạm thời được miễn thuế; (ii) Về các khoản giảm trừ: cần quy định hệ thống các khoản khấu trừ một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, mức thu nhập và mức sống của các tầng lớp dân cư; (iii) Về thuế suất và biểu thuế TNCN: cần điểu chỉnh cấu trúc bậc thuế và thuế suất hợp lý; xem xét vấn đề hài hoà thuế suất giữa chính sách thuế TNCN với các chính sách thuế khác, đặc biệt là thuế TNDN; đồng thời áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần đối với một số loại hình thu nhập như thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản...
5. Thông tin nghiệm thu và lưu trữ
- Nghiệm thu: Đề tài đã được Hội đồng Tư vấn đánh giá, nghiệm thu thông qua (Quyết định số 96/QĐ-CLTC ngày 10/12/2021 của Viện Chiến lược và Chính sách tài chính về việc thành lập Hội đồng Tư vấn đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ KHCN cấp Cơ sở năm 2021).
- Lưu trữ: Đề tài được đóng quyển, lưu trữ tại Thư viện Viện Chiến lược và Chính sách tài chính./.