Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị

Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị 07/09/2022 14:12:00 20027

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị

07/09/2022 14:12:00

Trương Bá Tuấn

Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính

 

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là sắc thuế có vai trò và vị trí quan trọng trong hệ thống thuế của Việt Nam. Việc thực hiện chính sách thuế TNDN của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm qua đã góp phần quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho ngân sách nhà nước (NSNN), và cũng như trong việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, cùng với tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế TNDN hiện hành cũng đã phát sinh một số điểm hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu để rà soát, sửa đổi cho phù hợp, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, đồng thời, xử lý được các yêu cầu đang đặt ra và đảm bảo phù hợp xu hướng cải cách chính sách thuế TNDN trên thế giới.

Từ khóa: Chính sách thuế, thuế TNDN, ưu đãi thuế.

  

Corporate income tax (CIT) plays an important role in the tax system of Vietnam. The implementation of Vietnam's CIT policy in the past 10 years has made a contribution to the mobilization of financial resources for the state budget, as well as toward the achievement of the socio-economic development goals of the country. However, along with the process of development and international economic integration, the existing CIT policy has also revealed limitations and shortcomings that need to be reviewed and amended accordingly to ensure the uniformity of the legal system, effectively deal with emerging issues, and in line with the international trends on CIT reform.

Keywords: Tax policy, CIT, tax incentives.

 

1. Kết quả thực hiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp

Hầu hết các quốc gia đều đánh thuế đối với cả thu nhập và tiêu dùng. Trong khi thuế tiêu dùng là loại thuế chủ yếu đánh vào việc tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, được áp dụng tại thời điểm giao dịch hàng hóa, cung ứng dịch vụ thì thuế thu nhập thường đánh vào thu nhập ròng trong một kỳ tính thuế. Trong hệ thống thuế thu nhập thì thuế TNDN là loại thuế đánh vào thu nhập tính thuế của các doanh nghiệp, thường được xác định dựa theo chênh lệch giữa thu nhập chịu thuế và số chi phí được phép khấu trừ theo quy định. Ở hầu hết các nước, thuế TNDN là loại thuế được thu theo tỷ lệ cố định, không thu theo biểu thuế suất lũy tiến như thuế thu nhập cá nhân (thuế suất tăng theo mức thu nhập chịu thuế).

Ở Việt Nam, Luật Thuế TNDN đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thay cho Luật Thuế lợi tức trước đó. Hiện nay, chính sách thuế TNDN của Việt Nam được thực hiện theo Luật Thuế TNDN số 14/2008/QH12 ngày 03/6/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 và các luật sửa đổi, bổ sung Luật này. Trong 10 năm qua, Luật Thuế TNDN số 14/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào các năm năm 2013, 2014 và 2020.

Quá trình cải cách chính sách thuế TNDN ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay nhìn chung đã được thực hiện theo định hướng, mục tiêu xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020, từng bước tiếp cận với xu hướng cải cách chính sách thuế TNDN trên thế giới. Điểm nổi bật trong tiến trình cải cách chính sách thuế TNDN của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là đảm bảo duy trì một sắc thuế TNDN không có sự đối xử phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; thực hiện giảm nghĩa vụ thuế cho mọi loại hình doanh nghiệp thông qua việc điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông; từng bước mở rộng cơ sở thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, Việt Nam đã thực hiện giảm mức thuế suất phổ thông thuế TNDN từ 25% xuống 22% từ ngày 01/01/2014, riêng doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa được áp dụng mức thuế suất 20% ngay từ ngày 01/7/2013. Từ ngày 01/01/2016, mức thuế suất thuế TNDN phổ thông tiếp tục được giảm xuống 20%, áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp.

Việc quy định các khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN theo nguyên tắc loại trừ cho phép doanh nghiệp được trừ các khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện quy định (như kèm theo hóa đơn, chứng từ, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt đối với giao dịch trên ngưỡng quy định...); đồng thời, việc bỏ quy định khống chế khoản chi phí liên quan đến quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới… đã góp phần hỗ trợ cho các doanh nghiệp giảm chi phí thuế TNDN và giảm chi phí tuân thủ, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế.

Cùng với đó, Việt Nam cũng đã có bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện các chính sách liên quan đến việc phòng, chống các hành vi chuyển giá, trong đó, đã ban hành các quy định về khống chế chi phí lãi vay đối với giao dịch liên kết.

Hình 1. Quy mô thu thuế TNDN so với GDP danh nghĩa

Đơn vị: %

Hình 2. Tỷ trọng thu thuế TNDN so tổng thu NSNN

Đơn vị: %

Nguồn: Tính toán từ số liệu công khai ngân sách của Bộ Tài chính

Về phương diện động viên nguồn lực cho NSNN, thu từ thuế TNDN đóng vai trò ngày càng quan trọng cơ cấu thu NSNN của Việt Nam. Tỷ trọng thu từ thuế TNDN (không kể thu thuế TNDN từ dầu thô) trong tổng thu NSNN mặc dù giảm vào những thời điểm thực hiện điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông vào năm 2014 và 2016, tuy nhiên, sau đó đã có xu hướng tăng trở lại từ năm 2017 (Hình 2). Đến năm 2020, quy mô thu NSNN từ thuế TNDN (không tính thuế TNDN từ dầu thô) chiếm khoảng 16,2% tổng thu NSNN, tương đương 3,9% GDP. Mặc dù mức thuế suất phổ thông thuế TNDN được giảm mạnh từ 25% xuống 20% nhưng quy mô thu NSNN từ thuế TNDN (không tính thuế TNDN từ dầu thô) so với tổng thu NSNN và so với GDP cơ bản không có sự biến động quá lớn trong giai đoạn 2011- 2020 (Hình 1 và Hình 2). Nguyên nhân một phần là do tác động tích cực của việc thực hiện các biện pháp về mở rộng cơ sở thuế và tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế, cũng như sự phát triển của sản xuất - kinh doanh trong nước.

Cùng với đó, Việt Nam cũng đã thực hiện chuyển đối tượng hưởng ưu đãi thuế TNDN theo diện đầu tư mới từ pháp nhân (doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư) sang ưu đãi thuế theo dự án đầu tư mới của doanh nghiệp, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các chính sách ưu đãi về thuế TNDN. Ngoài ra, trong quá trình sửa đổi chính sách thuế TNDN cũng đã thực hiện rà soát, điều chỉnh phạm vi lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn được ưu đãi thuế; bổ sung ưu đãi thuế TNDN đối với một số đối tượng cần khuyến khích như dự án đầu tư có quy mô lớn, sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, các dự án thuộc diện được hỗ trợ đầu tư đặc biệt; bổ sung quy định miễn, giảm thuế đối với dự án đầu tư mở rộng nếu đáp ứng một số tiêu chí theo quy định. Việc áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế TNDN cùng với các biện pháp cải cách có liên quan khác đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong nước, đưa Việt Nam trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với nguồn vốn FDI (Trương Bá Tuấn, 2017).

Ngoài ra, chính sách thuế TNDN của Việt Nam cũng đã được sử dụng một cách linh hoạt dưới giác độ là một công cụ kinh tế vĩ mô để hỗ trợ cho nền kinh tế trong những giai đoạn khó khăn, tăng trưởng kinh tế chậm. Cụ thể, tại những thời điểm khó khăn của nền kinh tế, một số chính sách về giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế TNDN cho một số nhóm đối tượng cũng đã được ban hành để hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn những năm đầu của thập niên 2010 khi nền kinh tế phải ứng phó với các tác động bất lợi của tình hình kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước và trong 3 năm gần đây là trước các ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19.

2. Một số vấn đề đặt ra đối với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, do sự biến động nhanh của kinh tế - chính trị thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, chính sách thuế TNDN hiện hành đã phát sinh một số hạn chế, bất cập cần được nhận diện để nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp, qua đó, để một mặt tiếp tục củng cố vai trò của sắc thuế trong hệ thống thuế, mặt khác đảm bảo tính minh bạch và đồng bộ của hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển. Trong đó, các quy định cần được rà soát liên quan chủ yếu đến các khoản thu nhập được miễn thuế, thu nhập chịu thuế; các nguyên tắc xác định các khoản chi phí được trừ và không được trừ và các quy định về ưu đãi thuế TNDN.

Bên cạnh đó, chưa có chính sách ưu đãi thuế TNDN (thuế suất, phương pháp tính thuế) nhằm hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phát triển hay thúc đẩy các hộ kinh doanh chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Ở Việt Nam, các DNNVV hiện nay đang chịu sự điều chỉnh của các chính sách thuế TNDN tương tự như các doanh nghiệp có quy mô lớn. Trong khi đó, mặc dù không có sự phân biệt về chính sách nhưng trên thực tế so với các doanh nghiệp có quy mô lớn, các DNNVV đang gặp nhiều khó khăn, rào cản hơn trong việc tiếp cận với các chính sách ưu đãi thuế TNDN hiện có.

Ngoài ra, theo đánh giá của nhiều nghiên cứu, tác động của chính sách ưu đãi thuế TNDN đối với việc phân bổ nguồn lực và thu hút đầu tư có chọn lọc vào các lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam còn chưa cao, nên cần được rà soát lại cho phù hợp để hạn chế việc làm xói mòn cơ sở thuế không cần thiết. Chính sách ưu đãi thuế nói chung, ưu đãi về thuế TNDN nói riêng đã được xây dựng và áp dụng trong hơn 30 năm qua nhưng hiện đang có ít sự quan tâm đến việc xem xét, đánh giá “chi phí” của việc thực hiện các chính sách này trong mối tương quan với lợi ích dự kiến thu được từ các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi. Khi yếu tố “chi phí” của việc áp dụng chính sách ưu đãi thuế không được chú trọng sẽ tạo ra những dư địa và động cơ yêu cầu tiếp tục mở rộng các chính sách này của các bộ, ngành, địa phương. Kéo theo là mức độ dàn trải trong áp dụng ưu đãi thuế có xu hướng ngày càng gia tăng, dẫn đến chi phí của việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế cao.

Bên cạnh đó, ưu đãi thuế vẫn được coi như là một nhân tố cốt lõi chi phối đến quyết định của nhà đầu tư trong khi các yêu cầu khác, ví dụ, thông qua việc loại bỏ các rào cản thị trường và cắt giảm các khoản chi phí kinh doanh “gián tiếp” cũng có vai trò rất quan trọng chi phối đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước. Hiện nay, do không bị ràng buộc bởi các trách nhiệm cụ thể hay phải gánh chịu các “chi phí gián tiếp” từ việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế nên một số bộ, ngành và địa phương đã đưa ra các yêu cầu mới về ưu đãi thuế trong quá trình sửa đổi các chính sách có liên quan, trong đó có chính sách ưu đãi về thuế TNDN. Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và địa bàn là căn cứ quan trọng trong việc xây dựng các chính sách ưu đãi thuế nói chung, ưu đãi thuế TNDN nói riêng nhưng vẫn còn tư duy mong muốn phát triển dàn đều các ngành, lĩnh vực. Thực tế này đã dẫn đến việc rà soát, hợp lý hóa các chính sách ưu đãi thuế gặp phải nhiều khó khăn, thậm chí có xu hướng mở rộng.

Cùng với đó, pháp luật về thuế TNDN hiện nay cũng bộc lộ một số “khoảng trống” trong việc điều chỉnh các vấn đề thuế mới phát sinh trong quá trình tăng cường hợp tác quốc tế về thuế, xử lý các vấn đề thuế quốc tế. Trong thời gian qua, đã có nhiều sáng kiến thuế quốc tế được khởi xướng, trong đó đáng chú ý là Dự án Chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS) nhằm chống lại các hành vi trốn và tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia trong việc lợi dụng các khoảng trống và những hạn chế của chính sách thuế và của công tác quản lý thuế để chuyển lợi nhuận sang những quốc gia hay vùng lãnh thổ có mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn. Trong đó, đáng chú ý là tăng các khoản chi phí hợp lệ được khấu trừ thuế nhằm làm giảm cơ sở tính thuế, hoặc chuyển phần lợi nhuận đáng ra phải chịu thuế ở quốc gia này sang một quốc gia khác có thuế suất thấp hơn; hoặc sử dụng các hoạt động kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, các mô hình kinh doanh mới, các hoạt động thương mại điện tử nhằm né tránh các biện pháp quản lý thuế truyền thống. Theo ước tính của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD, 2015), mỗi năm các hành vi BEPS gây thất thoát khoảng từ 100 - 240 tỷ USD tiền thuế của các nước, tương ứng khoảng 4 - 10% tổng thu từ thuế TNDN toàn cầu. Việt Nam là quốc gia có độ mở cao, vai trò của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong nền kinh tế tương đối lớn. Theo đó, cần có những giải pháp phù hợp để ứng phó với các hành vi BEPS, cũng như sự phát triển ngày càng tăng của các hoạt động thương mại điện tử và các mô hình kinh tế mới.

Cùng với đó, ngày 08/10/2021, 136 quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên Diễn đàn BEPS đã đưa ra bản Tuyên bố về “Giải pháp Hai trụ cột” nhằm giải quyết những vấn đề thuế phát sinh trong thời đại của nền kinh tế kỹ thuật số. Trong “Giải pháp Hai trụ cột”, Trụ cột 1 sẽ phân bổ lại quyền đánh thuế cho những quốc gia có người tiêu dùng và thị trường; Trụ cột 2 tập trung vào việc đề xuất một mức thuế suất tối thiểu toàn cầu là 15% (GMT), qua đó hướng đến mục tiêu giảm hoặc triệt tiêu động lực chuyển lợi nhuận sang những nơi có thuế suất thuế TNDN thấp. Trong khuôn khổ GMT, trường hợp các công ty đa quốc gia chịu thuế suất thấp hơn mức tối thiểu đối với khoản thu nhập phát sinh ở một quốc gia nào đó, quốc gia cư trú của công ty đó có thể yêu cầu công ty đó nộp thuế bổ sung để bằng mức thuế tối thiểu. Theo đó, trường hợp công ty đa quốc gia có công ty thành viên thực hiện hoạt động đầu tư tại một quốc gia khác mà được áp dụng mức ưu đãi thuế TNDN ở mức cao dẫn đến số thuế phải nộp thấp thì số tiền thuế mà công ty phải nộp thêm tại quốc gia cư trú càng nhiều.

Thực hiện Trụ cột 2 kỳ vọng sẽ tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho tất cả các nước, giải quyết vấn đề thất thu thuế toàn cầu từ các hành vi chuyển lợi nhuận, đồng thời gián tiếp hạn chế “cuộc đua xuống đáy” trong giảm thuế suất thuế TNDN của các quốc gia để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã phê duyệt và đồng ý tham gia Trụ cột 2 như một biện pháp để ngăn chặn tình trạng xói mòn cơ sở thuế. Theo đó, Việt Nam cũng cần chủ động có các giải pháp để tham gia hiệu quả Trụ cột 2, nhất là đối với việc sửa đổi các quy định liên quan đến ưu đãi thuế TNDN để một mặt không làm xói mòn cơ sở thuế, mặt khác vẫn đạt được các mục tiêu trong thu hút nguồn vốn FDI, tránh tình trạng đưa ra các “ưu đãi dư thừa”, không có tác dụng trên thực tế.

3. Dự báo bối cảnh kinh tế - xã hội và định hướng hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam

nh hưởng kéo dài của dịch Covid-19 đối với nền kinh tế trong nước và các diễn biến bất lợi của tình hình chính trị thế giới đang tiềm ẩn các nguy cơ làm xói mòn cơ sở thuế, ảnh hưởng đến việc duy trì tỷ lệ động viên cho NSNN trong những năm tới. Cùng với đó, diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 và ảnh hưởng của sự tăng giá nhiều loại hàng hóa đối với việc thực hiện các mục tiêu về ổn định kinh tế vĩ mô sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến lộ trình thực hiện cải cách chính sách thuế để củng cố nguồn thu cho NSNN của Việt Nam. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia, cũng như thực tiễn thực hiện cải cách thuế ở Việt Nam từ khi thực hiện cải cách, mở cửa đến nay đã cho thấy, sẽ rất khó để đưa ra các biện pháp cải cách chính sách thuế một cách tổng thể, hiệu quả để mở rộng cơ sở thuế khi nền kinh tế phải đối mặt với nhiều rủi ro, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và nền kinh tế tăng trưởng thấp. Trong khi đó, nhu cầu chi NSNN, đặc biệt là chi cho con người, cho đảm bảo an sinh xã hội của Việt Nam dự báo ngày càng tăng, sẽ tiếp tục tạo nên các áp lực cho việc cân đối nguồn lực, đòi hỏi phải củng cố nguồn lực cho NSNN theo hướng bền vững thông qua các biện pháp cải cách thuế phù hợp.

Toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu, rộng và được mở rộng ra nhiều lĩnh vực, cùng với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin đã làm thay đổi mạnh mẽ các hoạt động kinh doanh truyền thống và đang đặt các cơ quan quản lý vào những tình huống chưa có tiền lệ, đòi hỏi phải có các biện pháp quản lý phù hợp, hiệu quả. Quá trình phân công lao động toàn cầu và sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu những năm gần đây đã có nhiều tác động đến cấu trúc tổ chức và hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia, tạo điều kiện cho các hoạt động chuyển giá và chuyển lợi nhuận xuyên biên giới. Sự xuất hiện và hiện diện với quy mô ngày càng lớn của các mô hình kinh doanh mới cũng đang tiềm ẩn các nguy cơ “chèn lấn” các hoạt động kinh doanh truyền thống, dẫn đến rủi ro làm xói mòn cơ sở thuế trong nước. Đây là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi Việt Nam cần có những ứng phó trong cải cách chính sách thuế TNDN một cách phù hợp, qua đó đảm bảo sự bền vững của thu NSNN.

Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 được Đại hội Đại biểu lần thứ XIII của Đảng thông qua đã đề ra nhiều định hướng quan trọng cho việc cải cách hệ thống chính sách thuế giai đoạn 5 năm và 10 năm tới, đó là: “Sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, phí theo nguyên tắc thị trường, gắn với cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế và áp dụng mức thuế suất hợp lý, hướng tới một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, bảo đảm huy động hợp lý các nguồn lực cho NSNN, đồng thời góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế”. Cùng với đó, Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm 2021 - 2025 cũng đã đề ra định hướng: “Khẩn trương sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách thu để cơ cấu lại nguồn thu ngân sách, thúc đẩy tăng thu hợp lý kết hợp nuôi dưỡng nguồn thu bền vững. Đẩy mạnh các biện pháp khai thác dư địa thu, chống thất thu, giảm nợ đọng thuế, mở rộng cơ sở thuế”.

Trong hệ thống thuế của Việt Nam, thuế TNDN có vai trò và vị trí rất quan trọng. Đây là sắc thuế đang tạo ra số thu NSNN có quy mô đứng thứ hai trong hệ thống thuế, chỉ sau thuế giá trị gia tăng. Để khắc phục được những hạn chế của chính sách thuế TNDN hiện hành, cũng như nhằm chủ động ứng phó với các thách thức mới đang đặt ra, một số định hướng cải cách chính sách thuế TNDN thời gian tới như sau:

(i) Tiếp tục duy trì mức thuế suất thuế TNDN phổ thông ở mức 20% như hiện hành. Với mức thuế suất thuế TNDN phổ thông là 20% cùng với các chính sách ưu đãi ở mức cao trong thu hút đầu tư1, chính sách thuế TNDN hiện hành của Việt Nam đã đảm bảo khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực (Hình 3). Trước bối cảnh quốc tế hiện nay, nhất là việc thực hiện Trụ cột 2 nêu trên và với yêu cầu về cơ cấu lại nguồn thu NSNN thì không nên đặt ra vấn đề tiếp tục điều chỉnh mức thuế suất phổ thông TNDN như đã thực hiện giai đoạn vừa qua mà cần tập trung nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế TNDN để tiếp tục phát huy hiệu quả vai trò của sắc thuế này trong hệ thống thuế. Việc đặt vấn đề giảm hơn nữa mức thuế suất thuế TNDN trên diện rộng sẽ có những ảnh hưởng lớn đến quy mô thu NSNN từ sắc thuế này, ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN, đặc biệt là trong bối cảnh một số nguồn thu như thu từ giao quyền sử dụng đất, thuế nhập khẩu, từ thoái vốn và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp có vốn nhà nước sẽ tiếp tục giảm trong những năm tới đây2.

Hình 3. Mức thuế suất thuế TNDN phổ thông của Việt Nam
so với các nước

Đơn vị: %

image

Nguồn: KPMG (2021)

(ii) Nghiên cứu để bổ sung các quy định về thuế TNDN liên quan đến các DNNVV. Tương tự như nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, các DNNVV đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và tỷ lệ DNNVV tại Việt Nam cũng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Các DNNVV đang được xác định là “động lực tăng trưởng”, là “xương sống” của nền kinh tế, nhất là trong việc tạo việc làm, thu nhập cho người lao động. Do đó, để thúc đẩy DNNVV phát triển cần thiết nghiên cứu áp dụng mức thuế suất TNDN thấp hơn cho các DNNVV như thông lệ ở nhiều nước hiện nay để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tích tụ vốn, mở rộng sản xuất - kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động. Mức thuế suất cụ thể nên được xác định dựa theo quy mô doanh thu của doanh nghiệp như kinh nghiệm của một số quốc gia và cần được tính toán cụ thể trên cơ sở phân tích và đánh giá về lợi ích - chi phí một cách đầy đủ.

Cùng với đó, nghiên cứu quy định cho phép các doanh nghiệp siêu nhỏ được áp dụng chế độ kế toán giản đơn, được nộp thuế TNDN theo tỷ lệ để thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, qua đó tiết kiệm thời gian và chi phí hành thu cho cả doanh nghiệp và cơ quan thuế. Cụ thể, nghiên cứu bổ sung quy định tại Luật Thuế TNDN để cho phép các doanh nghiệp siêu nhỏ có doanh thu hằng năm dưới ngưỡng nhất định được kê khai nộp thuế TNDN theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp doanh nghiệp không xác định được doanh thu, chi phí.

(iii) Nghiên cứu để có quy định miễn, giảm thuế TNDN trong các trường hợp doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ được thành lập mới từ hộ kinh doanh. Qua đó, góp phần thể chế hóa các chủ trương được đề ra trong Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp thông qua các chính sách như: Miễn, giảm thuế TNDN, tiền sử dụng đất trong những năm đầu hoạt động; tư vấn, hướng dẫn thủ tục thành lập doanh nghiệp, xây dựng phương án sản xuất - kinh doanh...”. Cụ thể hóa định hướng này, tại Luật Hỗ trợ DNNVV cũng đã có quy định về nguyên tắc xem xét áp dụng chính sách ưu đãi về thuế TNDN, đó là: DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh được miễn, giảm thuế TNDN có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế TNDN. Theo đó, để khuyến khích các hộ kinh doanh chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp cùng với việc thực hiện các giải pháp về đơn giản hóa chế độ kế toán thì việc bổ sung chính sách ưu đãi về thuế TNDN đối với doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ được thành lập mới từ hộ kinh doanh là rất cần thiết.

(iv) Rà soát lại tổng thể chính sách ưu đãi thuế TNDN để loại bỏ các biện pháp ưu đãi “dư thừa” trên cơ sở thu hẹp danh mục ngành, nghề và địa bàn được hưởng ưu đãi thuế, đảm bảo chính sách ưu đãi thuế được thực hiện có chọn lọc, gắn với việc đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chính sách ưu đãi thuế TNDN phải hướng vào các ngành, nghề có khả năng tạo ra các “ngoại ứng tích cực cho nền kinh tế”, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, tập trung vào các ngành, nghề mà Việt Nam có thể phát huy lợi thế so sánh, có dư địa để phát triển. Trên thực tế, một quốc gia không thể cạnh tranh với tất cả các quốc gia khác đối với tất cả các sản phẩm. Trong xác định các ngành, nghề ưu tiên cần loại bỏ tư duy chạy theo lợi ích cục bộ của ngành, địa phương mà cần chuyển sang hướng hợp tác, tạo động lực cho tăng trưởng theo chiều sâu của cả nền kinh tế, vì lợi ích tổng thế của quốc gia.

Việt Nam đang là quốc gia áp dụng nhiều chính sách ưu đãi dựa theo địa bàn. Theo Luật Đầu tư năm 2020, các địa bàn được hưởng ưu đãi đầu tư bao gồm: (i) Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; (ii) Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; (iii) Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và các khu kinh tế. Trong đó, tất cả các khu kinh tế đều được áp dụng chung một cơ chế ưu đãi về thuế TNDN như nhau với mức ưu đãi ngang bằng với ưu đãi dành cho các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà không gắn với đặc điểm thực tế và mức độ phát triển về điều kiện kinh tế - xã hội, hạ tầng của từng khu kinh tế, không phân biệt giữa các khu kinh tế đã đi vào hoạt động ổn định, có hạ tầng phát triển và các khu kinh tế mới được thành lập có điều kiện hạ tầng chưa phát triển. Quy định này đã làm giảm hiệu quả của việc thực hiện các chính sách thu hút đầu tư vào các địa bàn thực sự khó khăn, ví dụ như vùng núi, vùng sâu. Theo đó, đối với các khu kinh tế cần xem xét đến tính chất, đặc điểm và mục tiêu phát triển của từng khu kinh tế để có những chính sách ưu đãi về thuế TNDN phù hợp; nghiên cứu để thu hẹp mức độ ưu đãi về thuế TNDN đối với các khu kinh tế nằm ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, hạ tầng giao thông thuận lợi, đảm bảo chính sách ưu đãi thuế được thực hiện có chọn lọc.

(v) Nghiên cứu để hạn chế việc lồng nghép chính sách xã hội trong chính sách thuế để đảm bảo tính trung lập của hệ thống thuế, giảm chi phí tuân thủ. Về nguyên tắc, việc lồng ghép các chính sách xã hội vào chính sách ưu thuế cần được hạn chế và chỉ áp dụng đối với các trường hợp dễ giám sát và quản lý. Các chính sách hỗ trợ vì mục tiêu xã hội nên trước hết cần được thực hiện thông qua chính sách chi ngân sách thay vì thông qua chính sách ưu đãi thuế. Khi mà các đối tượng thụ hưởng được hỗ trợ trực tiếp từ NSNN hay các chương trình chi tiêu phù hợp, tính minh bạch cũng sẽ cao hơn và dễ dàng hơn cho việc quản lý và giám sát. Đồng thời, kiên quyết thực hiện nguyên tắc không quy định chính sách ưu đãi thuế trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Các quy định về thuế, bao gồm cả các quy định về ưu đãi thuế TNDN phải được quy định trong các luật thuế theo đúng quan điểm được đề ra trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030.

(vi) Thực hiện phân tích chi phí - lợi ích của các chính sách ưu đãi thuế, trong đó có thuế TNDN một cách thận trọng và mang tính dài hạn trước khi ban hành và trong quá trình thực hiện, bao gồm cả các ảnh hưởng về khía cạnh xã hội. Trong đánh giá, những lợi ích của chính sách ưu đãi thuế cần được cân nhắc, so sánh với chi phí cơ hội của việc thực hiện các chính sách này, đảm bảo không gây xói mòn nguồn thu trong trung và dài hạn. Nghiên cứu thiết lập cơ chế báo cáo để cơ quan thuế thu thập thông tin và dữ liệu liên quan đến chính sách ưu đãi thuế, bao gồm các thông tin liên quan đến số dự án được hưởng ưu đãi thuế, số giảm thu NSNN do ưu đãi thuế, đóng góp của dự án được hưởng ưu đãi đối với nền kinh tế trên các khía cạnh như tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu… Cụ thể, sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan để thực hiện thống kê số giảm thu NSNN do thực hiện ưu đãi thuế và xây dựng Báo cáo chi tiêu thuế. Ở nhiều quốc gia, khoản ngân sách “mất đi” do thực hiện ưu đãi thuế được xem như là một khoản “chi tiêu”. Nói cách khác, thông qua chính sách ưu đãi thuế, ngân sách chính phủ đã “gián tiếp” chi cho các lĩnh vực được hưởng ưu đãi thuế. Theo đó, để phản ánh đầy đủ, toàn diện bức tranh ngân sách của chính phủ, đồng thời, để có căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả - chi phí của việc áp dụng chính sách ưu đãi thuế, nhiều quốc gia đã có quy định yêu cầu phải lồng ghép các thông tin này vào trong các tài liệu ngân sách hằng năm.

(vii) Xây dựng lộ trình, kế hoạch phù hợp để tham gia các diễn đàn thuế quốc tế để xử lý hiệu quả vấn đề dịch chuyển lợi nhuận của các công ty xuyên quốc gia. Trong những năm gần đây, hợp tác quốc tế về thuế đã trở thành xu hướng chung, được hầu hết các quốc gia trong khu vực quan tâm. Với việc trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn BEPS vào năm 2017, Việt Nam cam kết thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia thành viên. Để việc tham gia Diễn đàn này được hiệu quả, Việt Nam cần chủ động rà soát quy định của pháp luật thuế trong nước, nhất là trong việc đảm bảo thực hiện hiệu quả các hành động tối thiểu mà Việt Nam đã cam kết thực hiện.

(viii) Chủ động xây dựng lộ trình và có biện pháp để tham gia hiệu quả Trụ cột 2 nêu trên. Với chính sách ưu đãi thuế TNDN hiện nay của Việt Nam, khi tham gia Trụ cột 2 có thể có tác động làm giảm tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thông qua chính sách ưu đãi thuế TNDN. Khi Việt Nam tham gia Trụ cột 2 thì quốc gia (nơi có công ty mẹ tối cao đạt ngưỡng doanh thu từ 750 triệu EUR/năm) sẽ có quyền thu thuế bổ sung nếu mức thuế suất hiệu quả mà công ty con tại Việt Nam phải nộp chưa đến mức 15%.

Mặc dù với cơ chế áp dụng thu thuế bổ sung đối với công ty mẹ ở nước ngoài không ảnh hưởng đến số thu thuế của Việt Nam đối với các công ty con của các công ty này đang hoạt động ở Việt Nam, cũng như không bắt buộc Việt Nam phải cắt giảm ưu đãi về thuế TNDN đang áp dụng cho các công ty con. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Việt Nam phải có các biện pháp ứng phó phù hợp để duy trì tính hấp dẫn của các chính sách thu hút đầu tư so với các quốc gia khác. Với ngưỡng doanh thu của công ty mẹ tối cao là từ 750 triệu EUR/năm thì phạm vi doanh nghiệp FDI chịu ảnh hưởng của Trụ cột 2 dự báo là không ít và sẽ có các tác động nhất định tới các doanh nghiệp FDI là công ty con của các tập đoàn đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam.

Theo đó, để đảm bảo chính sách thuế TNDN phát huy được hiệu quả trong thu hút nguồn vốn FDI, hạn chế được việc đưa ra các chính sách ưu đãi “dư thừa” và bảo đảm quyền đánh thuế của Việt Nam, cần thiết nghiên cứu cụ thể về những ảnh hưởng của Trụ cột 2 đối với môi trường đầu tư trong nước để có các giải pháp ứng phó phù hợp trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN tới đây.

 

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

1. Bộ Tài chính (2021), Cơ sở dữ liệu công khai ngân sách.

2. Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam (2017), Đánh giá chi tiêu công Việt Nam: Chính sách tài khóa hướng tới bền vững, hiệu quả và cân bằng - Báo cáo tổng quan.

3. Trương Bá Tuấn (2017), Chính sách ưu đãi thuế TNDN của Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và định hướng cải cách, Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam.

Tiếng Anh

4. Desai, Foley & Hines (2004), Foreign Direct Investment in a World of Multiple Taxes, Journal of Public Economics.

5. OECD/G20 (2015), Base Erosion and Profit Shifting Project - Executive Summary 2015 - Final Reports, OECD Publishing, 2015.

6. OECD (2021), Statement on the Two-Pillar Solution to Address the Tax Challenges Arising from the Digitalisation of the Economy.

 

Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam số 4/2022

 

*1 Ví dụ, thuế suất ưu đãi 10% có thể được áp dụng trong thời gian lên tới hơn 30 năm cùng với thời gian miễn thuế tối đa lên tới 4 năm đầu có thu nhập chịu thuế, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm tiếp theo đang áp dụng đối với nhiều dự án. Đối với các dự án thuộc diện được hỗ trợ đầu tư đặc biệt theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020, mức ưu đãi về thuế TNDN được áp dụng còn có thể cao hơn đáng kể so với mức này.

*2 Mặc dù đã có những nghiên cứu chỉ ra việc thu hút nguồn vốn FDI phản ứng tích cực khi mức thuế suất ở quốc gia nhận đầu tư giảm xuống nhưng mức phản ứng thường nhỏ hơn ở các nước đang phát triển so với các nước phát triển (Desai, Foley & Hines, 2004).

Các tin khác

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%