Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 và một số giải pháp kiến nghị

Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 và một số giải pháp kiến nghị 25/02/2020 09:50:00 1067

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 và một số giải pháp kiến nghị

25/02/2020 09:50:00

Bùi Thu Hà, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta đã đưa ra chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Sau 8 năm thực hiện, chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã đạt những thành quả gì? Còn những hạn chế nào? Và làm thế nào để nâng cao chất lượng tăng trưởng trong thời gian tới? Bài viết dưới đây bàn về những vấn đề này.

Từ khóa: Chất lượng tăng trưởng kinh tế, hiệu quả tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

The 11th National Party Congress proposed the policy of renovating the economic growth model in order to improve the quality of economic growth and development. The research focuses on achievements of Vietnam’s economic growth and limitations after 8 years of implementation of the 11th National Party Congress’s Resolution on the economy and society, and then discusses the solutions to improve the quality of growth in the future.

Keywords: Quality of economic growth, growth efficiency, competitiveness of the economy.

 

1. Lý luận chung về chất lượng tăng trưởng kinh tế

1.1. Tăng trưởng kinh tế

Trong những giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, người ta thường quan tâm nhiều đến tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau nhưng bổ sung cho nhau về khái niệm tăng trưởng kinh tế và tổng quan nhất là: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm hay là sự gia tăng về quy mô sản lượng trong nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Quy mô sản lượng của nền kinh tế được thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP) hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm hay gia tăng của các chỉ tiêu nêu trên của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.

Nếu thể hiện sự tăng trưởng của nền kinh tế thông qua các chỉ số như GDP hoặc GNP thì chỉ là đơn thuần thể hiện việc mở rộng sản lượng quốc gia của một nước. Còn tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng các chỉ số bình quân đầu người, có nghĩa là người ta muốn nói đến sự tăng trưởng mức sống của quốc gia đó. Ở cách thứ hai, người ta có thể so sánh giữa các quốc gia với nhau. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để quốc gia giảm bớt trình trạng đói nghèo, khắc phục lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng. Nhờ vậy, mức sống của người dân sẽ được cải thiện, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng sẽ giúp các quốc gia giải quyết được các vấn đề tồn đọng về thất nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế… Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế còn là tiền đề vật chất cho các quốc gia củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của Nhà nước đối với xã hội.

1.2. Các quan điểm về chất lượng tăng trưởng kinh tế

Quan niệm thường gặp nhất về chất lượng tăng trưởng kinh tế là phát triển bền vững. Theo khái niệm của Ủy ban quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED), “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của thế hệ hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Hay rõ hơn, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Nam Phi năm 2002 đưa ra khái niệm “Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, đó là phát triển bền vững về kinh tế, phát triển bền vững về xã hội và phát triển bền vững về môi trường”. Theo quan điểm này thì chất lượng tăng trưởng kinh tế không chỉ được hiểu là duy trì tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài, mà rộng hơn chất lượng tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển bền vững theo nghĩa chú trọng đến cả ba thành tố: Kinh tế, xã hội và môi trường.

Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn được đánh giá trên góc độ hiệu quả. Theo đó, chất lượng tăng trưởng kinh tế được đánh giá dựa vào nguồn gốc của tăng trưởng. Đối với tăng trưởng theo chiều rộng, nguồn gốc của tăng trưởng là vốn, lao động và khai thác tài nguyên. Đối với tăng trưởng theo chiều sâu, nguồn gốc của tăng trưởng lại thể hiện ở tăng năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn sản xuất nâng cao với thước đo tổng hợp năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng lên. Vậy chất lượng tăng trưởng kinh tế chính là việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh tế. Để tăng trưởng có hiệu quả kinh tế cao trong điều kiện hiện nay, cần đầu tư nâng cao chất lượng ngành giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, nghiên cứu và triển khai.

Chất lượng tăng trưởng kinh tế là nâng cao phúc lợi của công dân và gắn liền tăng trưởng với công bằng xã hội. Theo quan điểm này, người ta dùng khả năng đáp ứng phúc lợi cho nhân dân làm thước đo cho chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng tạo nên của cải cho xã hội và chất lượng của tăng trưởng gắn liền với việc sử dụng các của cải đó cho phúc lợi xã hội như thế nào. Phúc lợi không chỉ thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người mà còn là chất lượng cuộc sống, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, cơ hội học tập và chăm lo sức khỏe; công bằng xã hội thể hiện ở nhiều chỉ tiêu như hệ số Gini về giáo dục, thu nhập và tỷ lệ người nghèo trong xã hội.

1.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế

1.3.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất

(i) Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động

Năng suất lao động là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với lao động để sản xuất ra nó. Năng suất lao động là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới sức cạnh tranh, đặc biệt năng suất lao động lại phản ánh yếu tố chất lượng người lao động - yếu tố cốt lõi của sự phát triển trong sự cạnh tranh toàn cầu, sự phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức hiện nay.

Năng suất lao động = GVA hoặc GDP (theo giá so sánh)/Số lao động.

Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải, hay hiệu suất của lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm, lượng giá trị sử dụng (hay lượng giá trị) được tạo ra trong một đơn vị thời gian, hay đo bằng lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị thành phẩm. Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một tổ chức, một đơn vị sản xuất, hay của một phương thức sản xuất. Năng suất lao động được quyết định bởi nhiều nhân tố, như trình độ thành thạo của người lao động, trình độ phát triển khoa học và áp dụng công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và tính hiệu quả của các tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.

(ii) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn

Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa vào lượng vốn đầu tư nhiều hay ít, mà quan trọng hơn là dựa vào hiệu quả sử dụng của lượng vốn này cao hay thấp.

Một trong những chỉ tiêu quan trọng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn là hệ số ICOR. Nếu hệ số ICOR thấp, nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao và ngược lại. Tuy nhiên, theo quy luật hiệu quả cận biên của tư bản có khuynh hướng giảm dần, khi nền kinh tế tăng trưởng thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng, thì giai đoạn sau cần một tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cao hơn.

(iii) Chỉ tiêu phản ánh đóng góp của khoa học công nghệ, trình độ quản lý đối với tăng trưởng kinh tế

Khi phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn lực, thì một trong nhân tố không thể không nhắc đến là tác động của khoa học công nghệ và trình độ quản lý. Ngày nay, để đánh giá tác động của các yếu tố này thì thường dùng chỉ tiêu nhân tố năng suất tổng hợp (TFP).

Năng suất các nhân tố tổng hợp là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động (các nhân tố hữu hình), nhờ vào tác động của các nhân tố vô hình như đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động của công nhân.... Tốc độ tăng TFP phản ánh tốc độ tiến bộ khoa học công nghệ là chỉ tiêu tổng hợp phản ảnh sự nhanh, chậm của tiến bộ khoa học công nghệ trong một thời gian nhất định. TFP được coi là yếu tố chất lượng của tăng trưởng hay tăng trưởng theo chiều sâu. Nếu TFP tăng nhanh và chiếm tỷ trọng đóng góp cao cho tăng trưởng kinh tế thì sẽ đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, tránh được những biến động từ yếu tố bên ngoài. Để tính tác động của TFP đến tăng trưởng kinh tế, người ta thường sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas.

Y = A.Kα.L1-α.

Y là biến số về sản lượng của nền kinh tế (thường tính bằng GDP theo giá cố định).

K là biến số về vốn.

L là biến số về lao động.

A là TFP.

1.3.2. Chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, có mối quan hệ hữu cơ, mối quan hệ qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, vận động theo những mục tiêu nhất định. Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mục đích của việc chuyển dịch này là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu, chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới, tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện trình độ phát triển của nền kinh tế, sự liên kết, phối hợp giữa các bộ phận hợp thành ở trình độ càng cao thì sự phát triển hài hòa được đảm bảo.

1.3.3. Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế với khả năng đảm bảo cơ sở hạ tầng

Chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện thông qua việc tăng trưởng kinh tế phải gắn với khả năng đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng. Đặc biệt là hạ tầng giao thông và khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong quá trình tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao thường dẫn đến vấn đề quá tải của cơ sở hạ tầng. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc tăng trưởng kinh tế trong những chu kỳ tiếp theo. Do đó, nếu tăng trưởng kinh tế mà không đảm bảo cơ sở hạ tầng thì chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao.

1.3.4. Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế với các vấn đề môi trường

Chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện thông qua việc tăng trưởng phải gắn với khai thác tài nguyên hợp lý và bảo vệ môi trường. Nếu tăng trưởng kinh tế mà dựa chủ yếu vào việc khai thác tài nguyên thì tăng trưởng kinh tế này sẽ không bền vững, nghĩa là chất lượng tăng trưởng kinh tế sẽ không cao. Các chỉ tiêu chính để đánh giá vấn đề này bao gồm: Mức độ cạn kiệt tài nguyên, tình hình ô nhiễm môi trường.

1.3.5. Chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh tăng trưởng

Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế phản ảnh khả năng nền kinh tế đó đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao, là tăng năng lực sản xuất bằng việc đổi mới, sử dụng các công nghệ cao hơn, đào tạo kỹ năng liên tục, quan tâm đến công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Ở góc độ một nền kinh tế thường đánh giá theo ba tiêu chỉ: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, năng lực cạnh tranh của quốc gia.

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tăng trưởng kinh tế

1.4.1. Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên thiên là một trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài nguyên, đất đai thì sẽ không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con người. Tuy nhiên, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, các nước đang phát triền thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, chưa qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng là cơ sở để phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp chế biên, các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ…

Đối với hầu hết các nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, nhờ có nguồn tài nguyên rồi rào, đa dạng nên có thể rút ngắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để bán nhằm tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

1.4.2. Yếu tố thể chế chính trị, kinh tế - xã hội

Đây là yếu tố ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Có giả thiết cho rằng, sự khác biệt về thể chế kinh tế là nguyên nhân cơ bản của các mẫu hình khác nhau trong tăng trưởng kinh tế. Cốt lõi của giả thiết này dựa trên luận điểm cách thức con người tổ chức xã hội, quyết định xã hội đó có thịnh vượng hay không. Một xã hội luôn khuyến khích mọi người đổi mới, chấp nhận rủi ro, tiết kiệm cho tương lai, học tập, giải quyết những vấn đề chung và cung cấp các hàng hóa công cộng… là đã đạt tới mức thu nhập cao hơn. Ngược lại cách tổ chức này thì xã hội sẽ rơi vào tình cảnh nghèo đói.

1.4.3. Yếu tố về nguồn lực

Chất lượng đầu vào của lao động là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động, là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm được điều tương tự.

Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực được xem là yếu tố chất lượng của tăng trưởng.

2. Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sau 8 năm đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế

2.1. Kết quả đạt được

Tăng trưởng kinh tế ổn định hơn

Trong điều kiện biến đổi khí hậu và xu hướng bảo hộ mậu dịch của các nước trên thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá cao và ổn định đạt 6,24% (năm 2011) lên 6,68% (năm 2015) và 7,08% (năm 2018). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này cao hơn một số nước có nền kinh tế mới nổi trong khu vực.

Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế ở một số nước châu Á

Đơn vị: %

 

Quốc gia

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Trung Quốc

7,8

7,3

6,9

6,7

6,8*

6,6*

Campuchia

7,0

7,1

7,0

7,0

7,0*

7,1*

Myanmar

8,4

8,0

7,0

5,9

6,4*

6,8*

Ấn Độ

6,4

7,5

8,0

7,1

6,7*

7,1*

Việt Nam

5,42

5,98

6,68

6,21

6,81

7,08

Nguồn: Tổng cục Thống kê; (*) Ngân hàng Thế giới

Số liệu bảng 1 cho thấy, năm 2013 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn tốc độ tăng trưởng của các nước: 2,38% (Trung Quốc); 1,58% (Campuchia); 2,98% (Myanmar); 0,98% (Ấn Độ), sau đó giảm dần và đến năm 2015 tương ứng còn 0,22%; 0,32%; 0,32% và 1,32%. Từ năm 2016 - 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tăng nhanh hơn Myanmar; năm 2017 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chỉ chậm hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của Campuchia nhưng chênh lệch ở mức thấp (0,19%); năm 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chỉ còn thấp hơn của Campuchia và Ấn Độ nhưng khoảng cách chênh lệch rất thấp (0,02%). Năm 2017 - 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam lần đầu tiên tăng nhanh hơn Trung Quốc. Điều này cho thấy, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam là phù hợp và đang phát huy tác dụng. Do tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định nên GDP bình quân đầu người tăng liên tục qua các năm: 1.571 USD năm 2011; 2109 USD năm 2015 và đến năm 2018 đạt 2.587 USD, gấp 1,65 lần so với năm 2011. Tốc độ tăng GDP/người giai đoạn 2011 - 2018 đạt 9,41%/năm, cao hơn mức 9,26%/năm của giai đoạn 2001 - 2010.

Tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng dần dựa vào TFP và giảm dần dựa vào tăng vốn đầu tư

Tỷ trọng đóng góp của TFP vào GDP tăng dần, từ 14% (năm 2011) lên 47,3% (năm 2015) và 43,5% (năm 2018), bình quân cả giai đoạn ở mức 33,66% GDP, cao hơn nhiều so với 23% của giai đoạn 2006 - 2010 và cơ bản đạt chỉ tiêu (30 - 35%) mà Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đề ra. Theo đó, tỷ trọng đóng góp của tăng vốn vào tăng trưởng GDP giảm nhanh, từ 60,6% (năm 2011) xuống 51,3% (năm 2015) và 51,5% (năm 2018). Giai đoạn 2011 - 2018, tỷ trọng đóng góp của tăng vốn vào tăng trưởng GDP bình quân chiếm 54,4%, thấp hơn mức 58% của giai đoạn 2006 - 2010. Điều này cho thấy, chất lượng tăng trưởng kinh tế sau 8 năm thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đã được cải thiện.

Hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế có dấu hiệu tốt lên

Hiệu quả sử dụng vốn cao hơn giai đoạn 2006 - 2010. Nếu giai đoạn 2006 - 2010, nền kinh tế tạo ra một đồng GDP tăng thêm cần 6,96 đồng vốn, thì đến giai đoạn 2011 - 2018 chỉ phải bỏ ra 6,22 đồng. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế tăng qua các năm và đến năm 2018 đạt 102 triệu đồng, cao gấp 1,85 lần so với năm 2011; tốc độ tăng năng suất giai đoạn này đạt 4,8%/năm, cao hơn 3,4%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Các năm 2016 - 2018, tốc độ tăng năng suất lao động đạt bình quân 5,75%/năm, vượt mục tiêu đề ra (5%/năm giai đoạn 2016 - 2020).

Khả năng duy trì tăng trưởng trong dài hạn được chú trọng

Cùng với tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người tăng qua các năm đã góp phần nâng cao mức sống của người dân, giảm dần tình trạng nghèo đói. Vấn đề phục hồi, tái tạo môi trường, đa dạng sinh học và thích ứng với biến đổi khí hậu đã và đang ngày càng được quan tâm hơn. Tỷ lệ phủ xanh rừng tăng qua các năm và đến năm 2018 đạt mức che phủ 41,65% - đáp ứng mục tiêu đề ra.

2.2. Một số bất cập, hạn chế

Tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào tăng vốn

Giai đoạn 2011 - 2018, tăng vốn chiếm tỷ trọng trên 54% tăng GDP. Yếu tố TFP mặc dù tăng, nhất là từ năm 2014 đến nay, song không ổn định và vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tăng GDP so với các nước trong khu vực. Đơn cử, tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc là 51,5%, Trung Quốc 52%, Thái Lan 53%, Indonesia và Malaysia đều ở mức 49%. Đặc biệt, Việt Nam chưa khai thác được lợi thế của nhân tố lao động vào tăng trưởng kinh tế, dẫn đến tỷ trọng đóng góp của lao động vào tăng GDP giảm khá nhanh, năm 2018 chỉ còn 5%, thấp hơn rất nhiều so với mức 20 - 30%, thậm chí 40% của các nước trong khu vực tương đồng về quy mô dân số.

Hiệu quả tăng trưởng kinh tế còn thấp

Hiệu quả sử dụng vốn đã được cải thiện, song vẫn còn cao gấp 1,5 - 2 lần so với một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực có cùng trình độ công nghệ và thực hiện tăng trưởng nhanh. Cụ thể, nếu Việt Nam cần 6,22 đồng vốn mới tạo ra 1 đồng GDP tăng thêm thì Trung Quốc cần 4,1 đồng, Nhật Bản và Hàn Quốc cần 3,2 đồng, còn Đài Loan chỉ cần 2,7 đồng.

Năng suất lao động tuy tăng nhưng mức tuyệt đối còn khoảng cách khá xa và có xu hướng gia tăng so với các nước trong khu vực ASEAN. Chẳng hạn, với Singapore tăng từ 132.566 USD (năm 2011) lên 141.276 USD (năm 2018); tương tự, Malaysia từ 42.397 USD (năm 2011) lên 47.545 USD (năm 2018); Thái Lan từ 14.985 USD (năm 2011) lên 18.973 USD (năm 2018); Indonesia từ 10.480 USD lên 13.707 USD; Philipines từ 6.609 USD lên 8.385 USD.

Tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào gia công nên không bền vững. Chênh lệch giữa tốc độ tăng giá trị sản xuất và tốc độ tăng GDP giảm từ 5 - 6 điểm phần trăm giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn 3 - 3,5 điểm phần trăm trong giai đoạn 2011 - 2018. Điều này phản ánh nền kinh tế tăng trưởng vẫn dựa vào gia công, phụ thuộc vào nguyên liệu, vật tư nhập khẩu từ nước ngoài. Xu hướng gia công không chỉ trong ngành công nghiệp mà cả ngành nông nghiệp và đây cũng là yếu tố làm các ngành suy giảm về hiệu quả và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.

Năng lực cạnh tranh của Việt Nam thấp, có xu hướng giảm và không ổn định

Năm 2011 - 2012, năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp thứ 65, sau đó ba năm liên tiếp tụt xuống thứ 75, 70, 68. Năm 2015 - 2016, vị trí được cải thiện tăng lên thứ 56, song liên tiếp ba năm sau lại tụt xuống thứ 60, 74 và 77. Đến năm 2018, xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã tụt 12 bậc so với năm 2011. Trong các nước ASEAN, xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia và Lào, thấp hơn các nước còn lại với khoảng cách ngày càng doãng ra. Chẳng hạn, năm 2011, Việt Nam kém Thái Lan 26 bậc, kém Malaysia 44 bậc, kém Philipines 13 bậc, kém Singapore 63 bậc; năm 2018 khoảng cách tương ứng là 39, 52, 21 và 75.

Khả năng duy trì tăng trưởng kinh tế trong dài hạn còn nhiều bất cập

Hiệu ứng tác động của tăng trưởng đến con người có xu hướng giảm, nếu như giai đoạn 2006 - 2010 một đơn vị phần trăm tăng thu nhập bình quân đầu người cải thiện được 16% về phát triển con người, thì đến giai đoạn 2011 - 2018 chỉ cải thiện được 13%. Bên cạnh đó, chênh lệch phân phối thành quả tăng trưởng đến các tầng lớp dân cư có xu hướng gia tăng và người nghèo được hưởng lợi ít nhất từ thành quả tăng trưởng kinh tế.

Ô nhiễm môi trường gia tăng. Tốc độ phát thải khí nhà kính cao nhất trong khu vực, chất lượng môi trường đất, nước và không khí suy giảm nghiêm trọng. Nguy cơ mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên ngày càng rõ rệt. Theo các nhà nghiên cứu, ô nhiễm môi trường đã làm thiệt hại khoảng 5% GDP, tương đương 10 tỷ USD, chủ yếu là làm giảm giá trị tăng trưởng của các ngành sản xuất, chi phí cải tạo môi trường và sức khỏe cộng đồng.

2.3. Nguyên nhân của hạn chế

Khoảng cách khá xa giữa tư duy và thực tiễn thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đã được Đảng ta đề ra từ Đại hội XI, song đến nay, việc xây dựng và thực hiện đề án cơ cấu lại nền kinh tế vừa chậm, vừa thiếu đồng bộ và chưa thực sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, làm cho chất lượng tăng trưởng thấp, tăng trưởng kinh tế về cơ bản vẫn theo chiều rộng, dựa vào tăng vốn.

Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp

Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng tăng trưởng. Song 8 năm qua, chất lượng nguồn nhân lực chưa có nhiều cải thiện. Nguồn nhân lực đa số là lao động phổ thông. Đến năm 2018, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của Việt Nam chiếm 21,9% tổng lao động xã hội, riêng khu vực nông thôn 14,3%, trong ngành nông nghiệp còn thấp hơn rất nhiều chỉ có 4,1%. Số lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật có cơ cấu chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường. Tình trạng này đã làm cho năng suất lao động của Việt Nam còn thấp, chưa tận dụng được lợi thế lao động vào tăng trưởng kinh tế, dẫn đến đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế ngày càng giảm.

Trình độ công nghệ và đầu tư cho khoa học và công nghệ chưa cao

Khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định tăng trưởng trong dài hạn, song các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu từ 3 - 4 thế hệ so với công nghệ của các nước. Các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ chung ở mức trung bình, trung bình thấp và thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Trong khi đó, tổng đầu tư toàn xã hội cho phát triển nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ở Việt Nam chỉ gần 1% GDP, thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năm 2008, tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Ixraen chiếm 5% GDP (không tính chi phí cho khoa học trong quốc phòng); Thụy Điển 3,75%. Năm 2013, chi cho R&D của Phần Lan 3,73%, Nhật Bản 3,47%, Hoa Kỳ 2,81%, Hàn Quốc 4,15%, Trung Quốc 2,01%, Singapore 2,01%, Malaysia 1,07% GDP. Điều này đã làm cho năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn và TFP thấp.

Năng lực quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế còn hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập

Do còn “điểm nghẽn” về thể chế kinh tế nên chưa tạo được đột phá huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Một số chủ trương, chính sách về kinh tế chậm được triển khai trong thực tế. Chưa xây dựng được chính sách, giải pháp đột phá hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút đầu tư, nhất là đầu tư tư nhân. Chất lượng thể chế thấp. Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Việc kiểm tra, giám sát mang tính hình thức. Tính minh bạch và giải trình còn thấp. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho việc huy động các nguồn lực khó khăn; gây thất thoát, lãng phí nên hiệu quả sử dụng các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế không cao, dẫn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp.

Chính sách tăng trưởng chưa có lợi cho tầng lớp yếu thế; hiệu lực, hiệu quả bảo vệ môi trường trong thực tiễn còn kém

Trong thời gian qua, một số chính sách tăng trưởng chưa có lợi cho tầng lớp yếu thế trên một số khía cạnh, đơn cử việc thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, chợ đầu mối, khu đô thị... trong khi việc giải quyết chính sách đền bù, giải tỏa cũng như đào tạo nghề, tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất chưa thỏa đáng, dẫn đến tình trạng một số nơi người nông dân có biểu hiện bị bần cùng hóa; tình trạng quy hoạch treo, tình trạng tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp, chợ đầu mối thấp làm lãng phí nguồn lực, trong khi nông dân không có đất sản xuất. Bên cạnh đó, mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào công nghiệp và kinh tế đô thị, dẫn đến tình trạng các địa phương có lợi thế về nông nghiệp, các tỉnh thuần nông trở thành những địa bàn yếu kém nhất trong cả nước.

Vấn đề gắn tăng trưởng với bảo vệ môi trường đã được đề cập sớm, hệ thống pháp luật, chính sách về môi trường đã được ban hành và thực thi trong thực tế, song đang bộc lộ những bất cập, chưa theo kịp những biến đổi nhanh của thực tiễn kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hơn nữa, ý thức chấp hành bảo vệ môi trường của các chủ thể sản xuất - kinh doanh chưa cao. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong bảo vệ môi trường chưa chặt chẽ. Điều này đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả bảo vệ môi trường, dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, làm giảm chất lượng tăng trưởng kinh tế.

3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới

Để nâng cao chất lượng tăng trưởng trong thời gian tới, Chính phủ cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:

(i) Thực hiện quyết liệt và thực chất tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Đây phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm và ưu tiên hàng đầu trong công tác điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương. Do đó, Chính phủ cần phải có những giải pháp quyết liệt thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và thời kỳ hội nhập mới của đất nước như: Theo dõi sát sao, đôn đốc và chỉ đạo quyết liệt việc tổ chức thực hiện thực chất các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế của các bộ, ngành, địa phương; kịp thời xử lý những “nút thắt” trong quá trình thực hiện tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực.

(ii) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế

Nhà nước, các địa phương và từng doanh nghiệp phải có chính sách đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, như: Làm tốt quy hoạch, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực; thu hút, giữ chân người tài. Đồng thời, trình độ và tay nghề đội ngũ nhân lực cần được nâng cao, cùng với các nội dung, chương trình đào tạo gắn với nhu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực, các địa phương; gắn lý thuyết với thực hành. Mục tiêu và phương hướng hoạt động của doanh nghiệp cũng như của các địa phương trong cả nước cần phù hợp với yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

(iii) Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển công nghệ thông qua nghiên cứu triển khai trong nước và chuyển giao công nghệ; nâng cao tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ

Nhà nước phải có cơ chế, chính sách tạo động lực để các doanh nghiệp, các địa phương đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Có chiến lược thu hút FDI theo hướng nâng cao chất lượng của dòng vốn, khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) liên kết với doanh nghiệp trong nước trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, việc thu hút FDI nhằm vào các nhà đầu tư tiềm năng, các tập đoàn xuyên quốc gia nắm giữ công nghệ cao, công nghệ nguồn cần được chú trọng. Cơ chế khuyến khích đầu tư của xã hội vào nghiên cứu và triển khai cần được đảm bảo vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt ít nhất phải trên mức 2% GDP (năm 2020) và khoảng 3% (năm 2030). Ngoài ra, khả năng hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp cũng như các cơ sở sản xuất cần được nâng cao hơn nữa.

(iv) Nâng cao năng lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của nền kinh tế

Chất lượng xây dựng và năng lực thực thi pháp luật về kinh tế trong thực tiễn cần được nâng cao để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng hiện đại, phù hợp với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và hội nhập. Hệ thống luật pháp kinh tế cần được tập trung rà soát, xây dựng theo hướng đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận. Luật pháp về sở hữu, phát triển kinh tế tư nhân và các loại hình doanh nghiệp cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng luật hóa quyền tài sản của tổ chức, cá nhân và Nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường cần được phát triển đồng bộ. Môi trường kinh doanh cần được tạo thuận lợi để thu hút mọi nguồn lực từ các chủ thể kinh tế vào phát triển kinh tế. Trách nhiệm giải trình của các cá nhân, cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cũng cần được nâng cao trong thời gian tới. Đồng thời, cần thực hiệ kiểm tra và giám sát thực chất nhằm kịp thời phát hiện ra những vướng mắc cũng như những sai phạm để điều chỉnh, tránh tình trạng buông lỏng trong một thời gian dài như giai đoạn vừa qua, gây thất thoát lớn, dẫn đến chất lượng tăng trưởng thấp.

Thực hiện chính sách tăng trưởng hài hòa, nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường và bảo đảm an ninh quốc phòng.

Thực hiện chính sách tăng trưởng hài hòa sẽ khắc phục được một số bất cập trong chính sách quá chú trọng đến tăng trưởng kinh tế thời gian vừa qua. Các chính sách cần được tập trung theo hai hướng: (i) Làm cho mọi tầng lớp dân cư, vùng động lực hay chậm phát triển đều được tham gia vào tăng trưởng kinh tế và hưởng lợi trực tiếp từ thành quả tăng trưởng; (ii) Việc phân phối lại thành quả tăng trưởng giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền trong cả nước cần được thực hiện kịp thời. Bên cạnh đó, cần giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường. Đồng thời, mô hình tăng trưởng kinh tế cần được đổi mới gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.

 

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ, Cải thiện năng suất lao động quốc gia, Hội nghị chính phủ ngày 07/8/2019.

2. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu các năm 2011 - 2018.

3. Chu Văn Cấp, Tái cơ cấu đầu tư - Một nội dung quan trọng hàng đầu của tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 3, tháng 3 - 4/2012, trang 56 - 57

4. Tạ Ngọc Tấn (2012), Phát triển khoa học và công nghệ: Một số kinh nghiệm của thế giới, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, trang 23.

5. Nguyễn Kế Tuấn (2011), Kinh tế Việt Nam năm 2010: Nhìn lại mô hình tăng trưởng giai đoạn 2001 - 2010, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, trang 112.

6. Thời báo Kinh tế Việt Nam (2019), Kinh tế 2018 - 2019: Việt Nam và thế giới, Nhà xuất bản Tài chính, trang 99.

7. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 2018, 2011.

8. Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018.

9. Viện Năng suất Việt Nam, Báo cáo năng suất Việt Nam năm 2017, trang 28.

Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam số 1/2020

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%