- Đơn vị chủ trì: Ban Tài chính quốc tế và Chính sách hội nhập
- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Nguyễn Duy Tuân
- Năm giao nhiệm vụ: 2020/Mã số: 2020-36
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Chính sách kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu công, từ đó làm gia tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế; thường được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái do tác động của các “cú sốc” về kinh tế - xã hội (khủng hoảng tài chính, khủng hoảng tiền tệ, thiên tai, dịch bệnh…).
Trong lịch sử, các nước đã phải sử dụng nhiều biện pháp kích thích kinh tế khi thế giới nói chung và các nước nói riêng đối diện với các cuộc khủng hoảng như: khủng hoảng tín dụng năm 1972, khủng hoảng do “cú sốc” giá dầu năm 1973, đại khủng hoảng 1929 - 1939, khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, khủng hoảng tài chính thế giới năm 2007, khủng hoảng nợ công châu Âu năm 2010 và khủng hoảng do đại dịch Covid-19 gây ra. Nhìn chung, các “cú sốc” đối với các nước có xu hướng ngày càng tăng với mức độ nghiêm trọng và gây nên nhiều hậu quả nặng nề cho kinh tế các nước.
Các nước đã sử dụng các gói kích cầu khác nhau, tùy thuộc vào tình hình của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, có những tranh luận khác nhau về tính hiệu quả và hệ quả của các gói kích cầu mà các nước đã và đang áp dụng. Trong bối cảnh hội nhập ngày một sâu rộng, những “cú sốc” kinh tế - tài chính trên thị trường thế giới và khu vực có thể ảnh hưởng nhanh và mạnh hơn đến các nền kinh tế. Đối với các nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, tác động của những biến động kinh tế - tài chính thế giới là tất yếu về nhiều mặt, nhất là về kinh tế vĩ mô, tài chính - ngân sách, đầu tư, sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, xuất khẩu - nhập khẩu, đòi hỏi phải có giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu “Chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính: Quan điểm, phương pháp các nước và Việt Nam” là cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính của Việt Nam trong trường hợp cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực tiễn sử dụng các chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính của một số quốc gia (Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc…) và Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2020.
4. Kết quả nghiên cứu
(1) Đề tài đã nghiên cứu và khái quát hóa những vấn đề lý luận về chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính, trong đó đã làm rõ khái niệm, vai trò, phương pháp thực hiện, các kênh tác động của chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính. Đề tài đã nghiên cứu chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính của một số nước (Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc…) và Việt Nam tập trung vào: chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009; chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính trong bối cảnh xảy ra đại dịch Covid-19 trong năm 2020. (2) Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn sử dụng công cụ chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở một số nước và Việt Nam, đề tài đã rút ra một số bài học và hàm ý chính sách gồm: (i) Ngay khi nhận thấy dấu hiệu suy thoái, khủng hoảng, Chính phủ cần nhanh chóng can thiệp, đưa ra chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính nhằm tác động vào nền kinh tế. Chính phủ cần thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm quá, kích cầu có thể làm cho nền kinh tế trở nên “nóng” và tăng áp lực lạm phát. Nhưng nếu thực hiện chậm thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm; (ii) Chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính cần đủ liều lượng để hỗ trợ nền kinh tế vượt qua giai đoạn khủng hoảng. Nếu gói kích cầu quá nhỏ thì không đủ lực hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, gây lãng phí gói kích cầu. Ngược lại gói kích cầu lớn quá sẽ tạo ra tác động kéo dài đối với nền kinh tế, làm cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong trạng thái tiếp tục được kích thích, sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, gia tăng lạm phát. (iii) Chỉ nên thực hiện chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính trong ngắn hạn: nguồn lực của bất kỳ Nhà nước nào cũng có giới hạn, nếu liên tục sử dụng chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính trong dài hạn sẽ gây ra những hệ lụy đối với ngân sách nhà nước, dẫn đến bội chi ngân sách lớn, kéo theo suy giảm tiết kiệm và đầu tư trong dài hạn, giảm động lực tăng trưởng và có thể dẫn đến khủng hoảng nợ công. Mặt khác, sử dụng chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính trong dài hạn sẽ làm tăng lạm phát, do các vòng quay của tiền tệ, làm giảm hiệu quả của chính sách. Khi nền kinh tế được cải thiện thì cần chấm dứt việc sử dụng chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính. (iv) Chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính phải đúng đối tượng, có điều kiện rõ ràng và khả thi: chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính phải hướng đến nhóm đối tượng thực sự cần và có khả năng sử dụng ngay số tiền được kích cầu, tạo ra hiệu ứng kích thích tiêu dùng và đầu tư cao nhất. Đối với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, các giải pháp kích cầu cần tập trung vào những ngành có hệ số lan tỏa lớn nhưng tỷ trọng nhập khẩu thấp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, cần tăng cường và ưu tiên kích cầu cho nông nghiệp và kinh tế - xã hội, nông thôn. Các công trình cần ưu tiên là xây dựng nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn như đường giao thông, điện, các công trình thủy lợi lớn, hệ thống kênh mương, công trình chống úng, ngập, hệ thống đê sông, đê biển, hỗ trợ ngư dân mua sắm tàu thuyền đánh bắt thủy sản xa bờ, nuôi trồng thủy sản xuất khẩu, hỗ trợ nâng cấp các trạm, trại thực nghiệm, trợ cấp các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, nhập khẩu phân bón vật tư nông nghiệp, thức ăn cho chăn nuôi để tăng nhanh chất lượng và giảm giá thành nông sản hàng hóa nói chung, nông sản xuất khẩu nói riêng. (v) Công tác tổ chức thực hiện là một yếu tố quan trọng đảm bảo hiệu quả chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính: Công tác tổ chức thực hiện không chỉ đảm bảo đưa chính sách đến đúng đối tượng, kịp thời mà còn thông qua đó đánh giá được tác động của chính sách để có sự điều chỉnh kịp thời, hiệu quả. Trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện, cần tăng cường sự phối hợp của các bộ, ngành Trung ương, các địa phương trong chỉ đạo, triển khai các biện pháp kích cầu của Chính phủ cho sản xuất, dịch vụ. Đồng thời, cần thực hiện cơ chế giám sát độc lập, khách quan để đảm bảo chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính đúng đối tượng, hiệu quả.