Chính sách tài chính với việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng

Chính sách tài chính với việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng 01/04/2022 17:28:00 1213

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Chính sách tài chính với việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng

01/04/2022 17:28:00

- Đơn vị chủ trì: Ban Chính sách tài chính công

- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Tô Kim Huệ

- Năm giao nhiệm vụ: 2020/Mã số: 2020-09

 

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp phần quan trọng không thể thiếu của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, gắn với phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Ngày 10/6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”. Sau đó, Nghị quyết số 24/2016/QH14 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 cũng đặt ra nhiệm vụ cần cơ cấu lại mạnh mẽ ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới có hiệu quả. Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 16/11/2017 về phê duyệt kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2017 - 2020 đặt mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh; cải thiện nhanh hơn đời sống của nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, sinh thái và góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng. Tại Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 25/6/2019 về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2020, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu, đối với khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới, nhằm tạo đột phá trong phát triển nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế.

Giai đoạn 2013 - 2019, mặc dù sản xuất, kinh doanh nông nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng vẫn duy trì được tăng trưởng, tốc độ tăng GDP đạt bình quân 2,91%/năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, đạt trên 238 tỷ USD, riêng năm 2019 đạt 41,3 tỷ USD, tăng 1,3 tỷ USD (tương đương 3,2%) so với năm 2016. Chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện, thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn được nâng cao, thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng từ 18,6 triệu đồng năm 2012 lên khoảng 32 triệu đồng năm 2017. Tuy nhiên, kết quả thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp mới chỉ là bước đầu, chưa tạo được bước chuyển rõ rệt, cơ cấu lại ngành nông nghiệp còn nhiều hạn chế, tăng trưởng nông nghiệp chưa bền vững; các hộ kinh tế nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ trọng cao, các doanh nghiệp có quy mô còn thiếu... Trong bối cảnh đó, việc đẩy mạnh hiệu quả thực hiện các chính sách tài chính nhằm cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là rất cần thiết. Do đó, việc lựa chọn chủ dề nghiên cứu “Chính sách tài chính với việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống, phân tích, đánh giá các chính sách tài chính trong việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam trong thời gian qua, đề tài đề xuất những định hướng chính sách tài chính nhằm cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Chính sách tài chính trong mối quan hệ với cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các chính sách tài chính trong việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2020 và đề xuất định hướng chính sách đến giai đoạn 2030.

4. Kết quả nghiên cứu  

(1) Đề tài đã hệ thống hóa được các vấn đề lý luận chung liên quan đến các vấn đề về chính sách tài chính với cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Theo đó, cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là quá trình chuyển đổi nông nghiệp, với các ưu tiên về sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng của chuỗi giá trị nông nghiệp cũng như chuyển dịch từ tăng trưởng nông nghiệp dựa vào tài nguyên sang tăng trưởng dựa vào công nghệ. Quá trình này được thực hiện dựa trên các định hướng vận hành ngành nông nghiệp nhằm đạt các mục tiêu tăng trưởng ngành. Một số chính sách tài chính quốc gia có vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy nông nghiệp phát triển như: (i) Chính sách thuế tác động đến mối quan hệ cung - cầu các mặt hàng nông nghiệp; góp phần thúc đẩy tích tụ đất, phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại; khuyến khích việc ứng dụng khoa học và công nghệ, thu hút vốn đầu tư và nguồn nhân lực vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch; (ii) Chính sách chi ngân sách nhà nước (NSNN) góp phần phát triển cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp; đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ nhằm phát triển nông nghiệp; góp phần đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp; hỗ trợ khắc phục khó khăn, (iii) Chính sách tín dụng ngân hàng hỗ trợ cung cấp vốn và thúc đẩy cơ sở sản xuất nông nghiệp sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả; (iv) Chính sách bảo hiểm giúp người nông dân giảm thiểu tổn thất, thiệt hại khi gặp rủi ro và yên tâm sản xuất.

(2) Đề tài đã phân tích được kinh nghiệm về các chính sách tài chính cụ thể nhằm phát triển nông nghiệp tại một số quốc gia trong và ngoài khu vực có điều kiện tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Israel, Ấn Độ, Phần Lan… Từ đó, đề tài đã rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng chính sách tài chính để phát triển nông nghiệp. Cụ thể là: (i) Đối với chính sách thuế, cần duy trì các chính sách ưu đãi cho sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh tích tụ đất nông nghiệp để tạo điều kiện phát triển các trang trại quy mô lớn; ưu đãi cho việc ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp, cơ giới hóa nông nghiệp; khuyến khích sản xuất nông nghiệp sạch, công nghệ sinh học, thân thiện với môi trường; (ii) Đối với chính sách chi NSNN, cần tập trung chi phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và phát triển thị trường nông nghiệp như giao thông, thủy lợi, điện, chợ đầu mối…; tăng cường đầu tư cho cơ sở nghiên cứu và ứng dụng phát triển khoa học và công nghệ…; (iii) Đối với chính sách tín dụng, cần có các biện pháp để khai thác tối đa mọi nguồn vốn đầu tư, tài trợ, đặc biệt là hỗ trợ ứng dụng phát triển khoa học công nghệ cho khu vực nông nghiệp nông thôn. Bên cạnh đó cần phát triển các dịch vụ ngân hàng cho địa bàn nông thôn…; (iv) Đối với chính sách bảo hiểm, cần sự hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời xây dựng cơ chế bảo hiểm cho ngành nông nghiệp phù hợp với sự đóng góp cả của người dân và các công ty bảo hiểm...

(3) Đề tài đã phân tích được thực trạng cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; thực trạng chính sách tài chính trong việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam. Từ đó, đề tài đã chỉ được ra những tồn tại, hạn chế của các chính sách tài chính hiện hành trong việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam như sau: (i) Đối với chính sách thuế, phí: tác động của ưu đãi thuế đối với việc phân bổ nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế; chưa có các quy định khuyến khích, hỗ trợ việc thành lập doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp; chưa thu hút được nhân lực chất lượng cao làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp; (ii) Đối với chính sách chi NSNN: vốn đầu tư của NSNN cho nông nghiệp hạn chế, chưa phát huy hiệu quả cao. Tỷ lệ đầu tư từ NSNN cho hoạt động khoa học công nghệ thấp, đầu tư cho khoa học công nghệ trong nông nghiệp dàn trải nên hiệu quả không cao. Cơ cấu chi đầu tư cho giáo dục, đào tạo chưa hợp lý, đào tạo chưa gắn kết với mục tiêu, không dựa vào hiệu quả đầu ra; (iii) Đối với chính sách tín dụng: giải ngân vốn chậm, việc tiếp cận vốn đối với doanh nghiệp nhỏ và hộ dân vẫn còn khó khăn; hoạt động cho vay đối với nông nghiệp còn tiểm ẩn nhiều rủi ro; khả năng huy động vốn tại chỗ của các ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn nông thôn hạn chế; (iv) Đối với chính sách bảo hiểm: việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp còn lúng túng, chiếm tỷ trọng nhỏ trong doanh thu bảo hiểm và chưa thực sự hỗ trợ hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.

(4) Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm các nước và thực trạng Việt Nam, đề tài đã đề xuất một số kiến nghị về chính sách tài chính với việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam trong thời gian tới. Theo đó, việc hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất cần hướng đến mục tiêu khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển của nông nghiệp, như điều chỉnh thuế suất thuế giá trị gia tăng của một số mặt hàng; bổ sung ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với một số đối tượng nhằm thu hút nguồn lực tri thức và tài chính của cá nhân tham gia vào quá trình phát triển nông nghiệp; ưu đãi về tiền thuê đất tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất nông nghiệp sạch. Bên cạnh đó, để phát triển nông nghiệp bền vững cũng cần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông thôn; thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là thông qua hình thức PPP. Ngoài ra, để hoàn thiện cơ sở pháp lý và tháo gỡ các khó khăn, vuớng mắc trong các thủ tục tiếp cận vốn vay nông nghiệp, Nhà nước cần có cơ chế định giá đất nông nghiệp đối với một số địa phương theo giá thị trường để tạo điều kiện cho khách hàng có cơ sở thế chấp cho khoản vay, bảo đảm đầu tư đủ vốn cho doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp. Các tổ chức tín dụng cần đơn giản hóa, nghiên cứu điều chỉnh linh hoạt điều kiện cho vay phù hợp với tình hình sản xuất nông nghiệp; cải thiện điều kiện tiếp cận vốn, bao gồm cả điều kiện về tài sản thế chấp (như mở rộng cho vay đối với hộ nông dân không phải thế chấp tài sản; bổ sung đối tượng khách hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; xem xét nâng mức cho vay không có tài sản bảo đảm và kéo dài thời hạn cho vay). Ngoài ra, cần đa dạng hóa các hình thức bảo hiểm nông nghiệp, thiết kế sản phẩm bảo hiểm phù hợp với nhu cầu của người nông dân và có tính khả thi cao, phù hợp với đặc thù của từng vùng và điều kiện sản xuất. Các mức phí bảo hiểm nông nghiệp cần đa dạng, linh hoạt để người dân có thể lựa chọn tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng.

 

 

 

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%