Rà soát chính sách thương mại trong khuôn khổ Hiệp định WTO đối với lĩnh vực tài chính

Rà soát chính sách thương mại trong khuôn khổ Hiệp định WTO đối với lĩnh vực tài chính 07/02/2022 09:00:00 4692

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Rà soát chính sách thương mại trong khuôn khổ Hiệp định WTO đối với lĩnh vực tài chính

07/02/2022 09:00:00

Trần Thị Thu Huyền

Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Tài chính

 

Phiên rà soát TPR lần thứ 2 của Việt Nam thực hiện cho giai đoạn 2013 - 2019 được đánh giá là rất thành công, hoàn thành nội dung Báo cáo quốc gia và Báo cáo của Ban thư ký Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); đồng thời góp phần cung cấp thông tin đầy đủ chính xác cho các đối tác thương mại và các nhà đầu tư hiện tại và trong tương lai. Qua phiên rà soát, Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục ủng hộ hệ thống thương mại đa phương với WTO đóng vai trò trung tâm; nỗ lực thúc đẩy tự do hóa thương mại mở, minh bạch, dựa trên luật lệ và thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế trong WTO và các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng mong muốn hợp tác chặt chẽ với các thành viên để thúc đẩy tiến trình hợp tác và cải cách, nâng cao hiệu quả của WTO trong thời gian tới. Các kiến nghị đề xuất từ lĩnh vực tài chính đã đóng góp thành công cho phiên rà soát lần thứ 2. Việc các chính sách tài chính được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa trong thời gian tới sẽ đóng góp vào mục tiêu Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030.

Từ khóa: Rà soát chính sách thương mại, WTO, FTA, chính sách thuế, chính sách hải quan, thuận lợi thương mại.

The second TPR session of Viet Nam was conducted for the period 2013-2019, and it has been considered a success because Viet Nam has achieved its objectives, namely (i) finishing completing the National Report for the WTO Secretariat Report; and (ii) contributing to providing correct and updated information for Vietnam’s trade partners, as well as current and future investors. After the review session, Vietnam continued to support multilateral trade system with WTO playing the central role; to endeavor to push for liberalizing open, transparent, rule-based trade; to keep on complying with international commitments under WTO and FTAs of which Vietnam is a member; and to express the desire to cooperate with WTO members to propel reforms within the Organization, significantly improving its efficiency in the future. Proposals from the financial sector significantly contributed to the success of the second Review Session. More complete financial policies in the future will help contribute to the objectives of the Socio-Economic Development Strategy of Vietnam for the 2021 - 2030 period.

Keywords: Trade policy review, WTO, FTA, tax policy, customs policy, trade facilitation.

1. Những vấn đề chung về rà soát chính sách thương mại trong khuôn khổ WTO

Rà soát chính sách thương mại là hoạt động được quy định trong Phụ lục 3 về Cơ chế rà soát chính sách thương mại thuộc Hiệp định thành lập WTO năm 1995, được thực hiện bởi Cơ quan rà soát chính sách thương mại (TPRB) với sự tham gia của tất cả các thành viên, đồng thời được báo cáo lên Đại hội đồng và Hội nghị Bộ trưởng WTO. Mục đích của cơ chế này là góp phần cải thiện việc tuân thủ triệt để các luật lệ, các nguyên tắc của WTO và các cam kết của các nước thành viên trong các hiệp định thương mại đa phương và các hiệp định nhiều bên. Bên cạnh đó, cơ chế còn hướng tới tăng cường tính minh bạch hóa chính sách và sự hiểu biết về các chính sách và thực tiễn thương mại của nước thành viên được rà soát, từ đó góp phần làm cho hệ thống thương mại đa phương vận hành hiệu quả hơn.

Việc rà soát sẽ được tiến hành trên cơ sở phân tích các chính sách chung và thông lệ thương mại của các thành viên, cũng như phân tích các chính sách theo lĩnh vực và biện pháp. Các đánh giá bao gồm ba phần chính: Báo cáo độc lập của Ban thư ký WTO, Báo cáo quốc gia của Chính phủ và Bản kết luận của Chủ tịch TPRB sau khi kết thúc phiên rà soát.

Các nội dung báo cáo và rà soát tập trung vào các chính sách kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu; việc thực thi các cam kết WTO của Việt Nam trong các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan; chính sách thương mại của Việt Nam từ năm 2013; các chính sách thương mại liên quan đến tất cả các hiệp định mà Việt Nam đã tham gia. Do vậy, tiêu chí rà soát duy nhất là việc tuân thủ các cam kết WTO của Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực được rà soát thông qua việc trả lời tất cả các câu hỏi chất vấn từ các quốc gia thành viên về các chính sách đã thực thi.

2. Thực trạng rà soát chính sách thương mại của Việt Nam

2.1. Phiên TPR lần 1 của Việt Nam

Phiên rà soát chính sách thương mại đầu tiên của Việt Nam đã chính thức diễn ra trong 2 ngày (ngày 17/9/2013 và 19/9/2013) với sự tham gia của Ban Thư ký WTO và nhiều nước thành viên WTO. Các tài liệu chuẩn bị cho phiên rà soát bao gồm Báo cáo của Ban Thư ký WTO, Báo cáo quốc gia của Chính phủ Việt Nam, tài liệu trả lời bằng văn bản cho hơn 500 câu hỏi được gửi trước của các nước thành viên.

Mặc dù Việt Nam được đánh giá là một trường hợp thành công của việc gia nhập WTO, nhưng các thành viên WTO cũng đã chỉ ra một số lĩnh vực mà Việt Nam cần cải thiện thêm như: tính minh bạch trong khuôn khổ pháp lý và thể chế; các biện pháp thuế quan và phi thuế quan; các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn vệ sinh thực phẩm; doanh nghiệp nhà nước và vai trò kiểm soát của Nhà nước đối với nền kinh tế; chính sách thương mại trong một số ngành, lĩnh vực.

Đối với chính sách thuế, sự khác biệt trong thuế suất MFN ràng buộc và thuế suất áp dụng đã tạo điều kiện cho Việt Nam đưa ra các bảo hộ cho một số ngành công nghiệp được lựa chọn. Một số dòng thuế đã tăng từ năm 2008 với mục đích bảo hộ cho một số sản phẩm, trong đó có sản phẩm thịt. Chính sách thuế và các ưu đãi về thuế cùng với các quy định trong nước về mua sắm công đã tạo ra các hỗ trợ cho ngành công nghiệp sản xuất nội địa, trong đó chủ yếu là ngành thép, ngoài ra ngành công nghiệp ô tô đang được xem xét hỗ trợ. Quyền áp dụng thuế hỗn hợp với mục đích giải quyết các gian lận thương mại làm tăng khả năng bảo hộ một số ngành công nghiệp cụ thể. Tuy nhiên, đề xuất tăng thuế tài nguyên có thể gây tổn hại đến các kế hoạch và hoạt động của các nhà đầu tư trong lĩnh vực khai mỏ.

Đối với thủ tục hải quan, thực trạng phân loại mã thuế quan HS khác nhau cho cùng 1 loại sản phẩm hoặc phân loại sai một số sản phẩm đã gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp. Việt Nam cũng đang triển khai các chương trình áp dụng thủ tục hải quan điện tử.

Ngoài các vấn đề nêu trên, các nước thành viên tập trung đưa ra những khuyến nghị nhằm khuyến khích Việt Nam đàm phán gia nhập Hiệp định Công nghệ thông tin (ITA) mở rộng, Hiệp định Mua sắm Chính phủ (GPA); đồng thời làm rõ nội dung yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa trong hoạt động mua sắm công. Bên cạnh đó, các nước thành viên cũng đề nghị Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thông báo đầy đủ và kịp thời, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và trợ cấp nông nghiệp; tăng cường quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và công bố thông tin về hoạt động này. Việt Nam cũng được khuyến khích tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư bằng việc giảm các gánh nặng hành chính trong quá trình xin cấp phép đầu tư, quy định cấp phép nhập khẩu tự động. Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường sự ổn định và khả năng dự đoán trước của các quy định pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư, thuế quan, các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS).

Sau 6 năm là thành viên WTO, Việt Nam đã thực thi cam kết đầy đủ, không có thành viên nào khiếu nại Việt Nam vi phạm cam kết. Do đó, đánh giá của các nước chủ yếu liên quan đến chính sách tài chính, trong đó tập trung vào tính ổn định của chính sách, các khuyến nghị chính sách trong lĩnh vực chính sách thuế, thủ tục hải quan, chính sách quản lý giá và quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

2.2. Phiên TPR lần 2 của Việt Nam

Theo quy định chung của WTO, kết cấu Báo cáo Quốc gia được chia thành 3 phần, gồm phần 1: Tổng quan Việt Nam trong hệ thống thương mại toàn cầu; phần 2: Tình hình phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam giai đoạn 2013 - 2019; phần 3: Triển vọng.

Về nội dung, Báo cáo Quốc gia tập trung chủ yếu vào phần 2 (Tình hình phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam) với các thông tin về tăng trưởng kinh tế theo GDP, đánh giá tình hình xuất - nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ; chính sách kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu; thực thi cam kết WTO trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ; tổng kết chính sách thương mại kể từ năm 2013.

Việc chuẩn bị cho quá trình rà soát của WTO của Việt Nam dựa trên cơ sở đề án xây dựng cơ sở dữ liệu, đề cương rà soát của cơ quan chủ trì là Bộ Công Thương. Lĩnh vực tài chính (chiếm ¼ số lượng nội dung câu hỏi trong tổng số gần 900 câu hỏi của các nước thành viên) cũng cần phải xây dựng kế hoạch xây dựng cơ sở dữ liệu để có thể chiết xuất theo các yêu cầu về Báo cáo Quốc gia và Báo cáo của Ban thư ký WTO. Theo đó, Việt Nam tiến hành rà soát cam kết và các văn bản, chính sách thực thi cam kết, cũng như các chính sách thực thi cao hơn cam kết để đánh giá việc tuân thủ cam kết của các chính sách đã thực thi. Ngoài ra, việc tham khảo chính sách và kinh nghiệm trả lời của các quốc gia có chính sách tương đồng cũng là một nội dung cần nghiên cứu. Theo kinh nghiệm nghiên cứu các báo cáo quốc gia của các đối tác như Trung Quốc, Thái Lan, Nga…, báo cáo quốc gia là một kênh thông tin đầy đủ và chi tiết về tình hình kinh tế, tình hình thực thi các đường lối chính sách, chủ trương trong hội nhập, tham gia vào tổ chức thương mại đa phương cũng như thu hút đầu tư, phát triển các ngành trong nước. Các báo cáo quốc gia đã nêu bật được sự kết nối giữa các lĩnh vực cụ thể với tổng thể chính sách và chiến lược phát triển kinh tế, tầm nhìn của đất nước.

Như vậy, quá trình rà soát chính sách thương mại trong lĩnh vực tài chính đã giúp Việt Nam tổng kết lại quá trình thực thi cam kết không chỉ với WTO mà còn trong các FTA khác; đồng thời học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng chính sách thông qua quá trình trao đổi, trả lời chất vấn từ các nước thành viên. Tuy nhiên, quá trình rà soát cũng bộc lộ Việt Nam vẫn còn thiếu các cơ sở dữ liệu cập nhật thường xuyên và đồng bộ với một số tiêu chí đánh giá của quốc tế, các công cụ đánh giá định lượng để đưa ra các đánh giá mang tính toàn diện hơn cho việc thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.

2.3. Những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực tài chính

Trên cơ sở Báo cáo Quốc gia của Việt Nam tại Phiên rà soát lần 1 (năm 2013) và tham khảo các báo cáo quốc gia khác, Việt Nam đã xây dựng Đề cương Báo cáo Quốc gia, trong đó có nhiều nội dung về kinh tế vĩ mô, chính sách thương mại, đầu tư, tài chính trong giai đoạn 2013 - 2019. Trong quá trình chuẩn bị cho Phiên rà soát lần 2, các lĩnh vực tài chính bao gồm chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; chính sách thuế nội địa (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế môi trường); chính sách hải quan (thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất - nhập khẩu); chiến lược hiện đại hóa hải quan; các biện pháp đảm bảo áp dụng thống nhất mã HS tại thời điểm nhập khẩu; các quy định về trị giá hải quan; các quy định và biện pháp của Việt Nam đối với hàng hóa nhập khẩu vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; dịch vụ tài chính (dịch vụ kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán); quản lý giá; quản lý ngân sách.

Trong các nội dung trên, Ban Thư ký tập trung vào rà soát các quy định về thuế nhập khẩu; thủ tục hải quan; doanh nghiệp nhà nước và các chính sách hỗ trợ cho các ngành công nghiệp. Một số nội dung Ban Thư ký chỉ đưa ra thông tin tổng hợp nhưng không đưa ra đánh giá cụ thể, trong khi đó, một số nội dung Ban Thư ký đưa ra nhận định rõ ràng là có sự vi phạm cam kết hoặc gây ra những ảnh hưởng bóp méo thương mại. Dựa trên nhận định này, các nước thành viên có căn cứ để chất vấn nước tham gia rà soát về việc không tuân thủ cam kết, đồng thời có thể là tiền đề cho các vụ việc khiếu kiện trong tương lai. Do đó, quá trình rà soát chính sách thương mại của Việt Nam cần kịp thời cung cấp thông tin và có những luận giải rõ ràng về chính sách áp dụng của Việt Nam với Ban Thư ký để hạn chế những thông tin không đầy đủ hoặc không khách quan trong Báo cáo rà soát.

Mục tiêu đặt ra đối với các cơ quan giải trình trong Báo cáo Quốc gia là vừa phải đảm bảo tính chính xác nhưng cũng cần tránh các thông tin cung cấp làm bất lợi cho quá trình giải trình tại báo cáo của Ban Thư ký. Khi giải trình cần nêu bật các quy trình và trách nhiệm của các bên trong việc thực thi pháp luật. Đơn cử như thuế cần nêu bật được sự chủ động của người khai và doanh nghiệp áp dụng các quy định về thuế theo hướng tự khai và tự chịu trách nhiệm theo các quy định của pháp luật. Ngoài ra, về các nội dung quy định cụ thể, Việt Nam cần chú ý đến việc thông tin về trách nhiệm thực thi của cơ quan nhà nước để tránh những vi phạm. Ví dụ như nội dung về tín dụng xuất khẩu cần giải trình theo hướng không còn chính sách tín dụng xuất khẩu của Nhà nước; Ngân hàng Phát triển Việt Nam chỉ tiếp tục thực hiện các hợp đồng vay vốn tín dụng xuất khẩu đã ký trước ngày Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 về tín dụng đầu tư của Nhà nước1 có hiệu lực thi hành (ngày 15/5/2017), không phải như tại dự thảo là Ngân hàng Phát triển Việt Nam không triển khai thực hiện. Một số nội dung câu hỏi có liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau, do đó cơ quan đầu mối cần có sự phân định rõ ràng và phối hợp để thống nhất cách thức trả lời về các vấn đề như việc quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ vừa được quy định trong Luật Ngoại thương và Luật Thuế xuất nhập khẩu.

Ngoài ra, nhiều nội dung cam kết, đặc biệt là các ưu đãi về thuế cần chú ý đến giải trình theo điều khoản đối xử quốc gia (NT) để giải trình chính sách không phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ, thuế bảo vệ môi trường là thuế thu đối với hàng hóa khi sử dụng gây ô nhiễm môi trường, không phân biệt hàng hóa trong nước hay hàng hóa nhập khẩu. Do đó, chính sách thuế bảo vệ môi trường đảm bảo phù hợp với các nguyên tắc của WTO.

3. Một số khuyến nghị đối với các chính sách tài chính

Qua quá trình rà soát chính sách thương mại đối với lĩnh vực tài chính, Việt Nam nên tham khảo các chính sách của một số quốc gia nhằm tiếp tục thực thi các cam kết tài chính trong WTO và thực hiện có hiệu quả các chính sách tài chính. Một số kiến nghị cụ thể đối với các nội dung tài chính cần được xem xét trong ngắn hạn và dài hạn.

Trong giai đoạn tới, các chính sách thuế của Việt Nam cần được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi bám sát mục tiêu, yêu cầu về cải cách hệ thống thuế nhằm sửa đổi bổ sung phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đồng thời, việc sửa đổi các chính sách thuế cần hướng tới việc góp phần chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia; khuyến khích thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn các sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước phù hợp với các cam kết, thông lệ quốc tế.

Thuế giá trị gia tăng

Chính sách thuế giá trị gia tăng cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm bớt số lượng nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng; giảm bớt nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5%; bổ sung quy định để xác định đúng cơ chế thu đối với một số loại hàng hóa, dịch vụ mới phát sinh theo sự phát triển của kinh tế thị trường. Việt Nam cũng cần nghiên cứu áp dụng cơ bản một mức thuế suất (không kể mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu); hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới cơ bản thực hiện phương pháp khấu trừ thuế. Ngưỡng doanh thu cũng cần được quy định để áp dụng hình thức kê khai thuế giá trị gia tăng phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và thông lệ quốc tế.

Thuế tiêu thụ đặc biệt

Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt cần được nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để hướng dẫn điều tiết tiêu dùng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng lộ trình điều chỉnh thuế đối với các mặt hàng thuốc lá, bia, rượu, ôtô… để điều tiết tiêu dùng và thực hiện các cam kết quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam cần nghiên cứu, bổ sung quy định về giá tính thuế đối với một số trường hợp hợp tác, phân công giữa các nước trong chuỗi sản xuất toàn cầu, bảo đảm điều tiết công bằng giữa hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước và hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần nghiên cứu áp dụng kết hợp giữa thuế suất theo tỷ lệ và thuế suất tuyệt đối đối với một số hàng hóa, dịch vụ chịu thuế.

Thuế thu nhập doanh nghiệp

Việt Nam cần điều chỉnh giảm mức thuế suất chung theo lộ trình phù hợp để thu hút đầu tư tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Các chính sách ưu đãi thuế cũng cần được đơn giản hóa theo hướng thu hẹp về lĩnh vực; tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, dịch vụ chất lượng cao, lĩnh vực xã hội hóa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, Việt Nam cần bổ sung quy định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Bên cạnh đó, để bao quát được các hoạt động kinh tế mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường (hoạt động bán hàng đa cấp, thương mại điện tử, sự phát triển của các tập đoàn kinh tế, hiện tượng “vốn mỏng” khi xác định chi phí, đặc biệt là chi phí lãi vay…), các quy định cẩn được bổ sung để phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thuế trước bạ

Việt Nam đã cung cấp thông tin về việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng dịch Covid-19 đối với ngành công nghiệp ô tô (ví dụ như giảm phí đăng ký). Theo quy định tại Nghị định số 70/2020/NĐ-CP ngày 28/6/2020, kể từ ngày 28/6/2020 đến hết ngày 31/12/2020, mức thu lệ phí trước bạ bằng 50% mức thu quy định tại Nghị định số 20/2019/NĐ-CP ngày 21/02/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ về lệ phí trước bạ và các Nghị quyết hiện hành của hội đồng nhân dân hoặc quyết định hiện hành của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về mức thu lệ phí trước bạ tại địa phương. Tuy nhiên, quy định như trên có thể vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử (NT) của WTO.

Thuế xuất - nhập khẩu

Thực hiện theo yêu cầu sửa đổi tại Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2010 -2020, Biểu thuế xuất khẩu được sửa đổi, bổ sung nhằm khuyến khích sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế xuất khẩu khoáng sản tài nguyên chưa qua chế biến, giảm hàng hóa gia công giá trị gia tăng thấp. Ngoài ra, thuế nhập khẩu được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo hộ hợp lý, có thời hạn, phù hợp với thông lệ quốc tế đối với một số hàng hóa sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, Quyết định số 732/QĐ-TTg thu gọn số lượng mức thuế suất, từng bước đơn giản biểu thuế, mã số hàng hóa; sửa đổi quy định về phương pháp tính thuế (bao gồm cả phương pháp tính thuế hỗn hợp, kết hợp thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và thuế tuyệt đối); thực hiện lộ trình điều chỉnh trong đó có xem xét đến sự chênh lệch thuế các mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên tham gia.

Hải quan

Về định hướng chiến lược hải quan đến năm 2030, mục tiêu tổng quát là xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả trên nền tảng hệ thống pháp luật đồng bộ. Ngoài ra, công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ được ứng dụng mạnh mẽ nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại hợp pháp, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội và bảo vệ lợi ích của quốc gia.

Dịch vụ kinh doanh bảo hiểm

Việt Nam cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh Bảo hiểm số 24/2000/QH10 một cách tổng thể cùng các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng phạm vi điều chỉnh rộng hơn và đồng bộ hơn hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong mối liên kết với các mảng thị trường dịch vụ tài chính. Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm tập trung phát triển bảo hiểm vi mô của các doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức chính trị xã hội; tiếp tục tái cấu trúc doanh nghiệp bảo hiểm; nghiên cứu các cải tiến trong quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm tra trong từng giai đoạn. Thị trường bảo hiểm cần phát triển theo hướng đa dạng hóa, mở rộng triển khai các sản phẩm bảo hiểm, đóng góp vào an ninh an toàn tài chính, phục vụ công ích xã hội, bảo đảm lợi ích của người tham gia bảo hiểm và góp phần đảm bảo kinh tế - xã hội.

Dịch vụ kinh doanh chứng khoán

Việt Nam cần tập trung triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và nhà đầu tư như giảm giá một số dịch vụ trong lĩnh vực chứng khoán, cắt giảm một số khoản phí và lệ phí, cắt giảm các thủ tục hành chính, đẩy nhanh tốc độ xử lý hồ sơ cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ, công ty đại chúng, tổ chức kiểm toán được chấp thuận.

Về dài hạn, Việt Nam cần cơ cấu hợp lý, cân bằng đồng bộ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, giữa thị trường cổ phiếu và trái phiếu, giữa thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Công tác quản lý giám sát thị trường, đặc biệt là giám sát liên thông giữa thị trường tiền tệ tín dụng với thị trường vốn cần được tăng cường hiệu quả nhằm phát triển thị trường vốn theo hướng minh bạch, hiệu quả.

Quản lý giá

Việt Nam cần nhất quán và đẩy mạnh thực hiện nguyên tắc quản lý giá theo cơ chế thị trường, tôn trọng quyền tự định giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực thẩm định giá và hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng trong lĩnh vực thẩm định giá cần được tăng cường, củng cố để nâng cao năng lực hoạt động thẩm định giá nhằm đáp ứng với yêu cầu của nền kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế. Không những vậy, Việt Nam cần phát triển bền vững và có chất lượng về số lượng thẩm định viên về giá và nhiều doanh nghiệp thẩm định giá có quy mô lớn, uy tín đối với thị trường thẩm định giá trong nước và quốc tế; đạt được sự công nhận lẫn nhau giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện Đề án “Đẩy mạnh thực hiện cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đối với hàng hóa quan trọng, thiết yếu; sớm thực hiện cơ chế giá thị trường đối với điện, đất đai và tài nguyên quan trọng, thiết yếu; sớm thực hiện cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đối với hàng hóa quan trọng, thiết yếu; sớm thực hiện cơ chế giá thị trường đối với điện, đất đai và tài nguyên quan trọng theo lộ trình thích hợp”.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế chính sách về quản lý và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, các cơ chế tiếp cận và sử dụng nguồn lực nhà nước cần được nghiên cứu, hoàn thiện theo hướng hình thành môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, xử lý các dự án thua lỗ, kém hiệu quả… Ngoài ra, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện nghiêm công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật. Đồng thời, các giải pháp nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch cần được thực hiện như công khai thông tin đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước (trừ các doanh nghiệp có liên quan đến quốc phòng, an ninh), đảm bảo cho mọi đối tượng quan tâm có thể dễ theo dõi, giám sát, khai thác thông tin. Bên cạnh đó, Việt Nam cần công khai thủ tục, điều kiện, quá trình lựa chọn và đối tượng thụ hưởng các nguồn lực quốc gia, đặc biệt là đất, tài nguyên thiên nhiên.

Chính sách hỗ trợ cho các ngành công nghiệp

Chính sách tài chính phải là động lực để thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp của Việt Nam. Một trong những chính sách quan trọng đó là chính sách đào tạo nguồn nhân lực phục vụ các ngành công nghiệp phụ trợ, nhất là trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, nhiều cam kết liên quan đến đầu tư, kinh doanh đều hướng tới mục tiêu chung là từng bước mở cửa thị trường dịch vụ và thực hiện chế độ không phân biệt đối xử cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài theo lộ trình nhất định. Do vậy, những chính sách tài chính nhằm đạo tào nguồn nhân lực có chất lượng thông qua các hình thức chính sách khác nhau sẽ là động lực để hỗ trợ cho các ngành công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam.

 

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

1. Bảng câu hỏi điều tra của các đối tác trong các vụ kiện chống trợ cấp đối với sản phẩm nhập khẩu vào Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu từ Việt Nam (năm 2009 - 2020).

2. Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (2006), Việt Nam gia nhập WTO.

3. Dự án hỗ trợ chính sách thương mại đa biên giai đoạn II - MUTRAP II (2008), Hoạt động HOR-9 “Đánh giá tác động tổng thể khi Việt Nam trở thành thành viên WTO đến thay đổi xuất nhập khẩu và thể chế”.

4. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại của WTO (GATT).

5. Nguyễn Xuân Trình (2012), Chính sách phát triển thị trường tài chính Việt Nam đến năm 2020.

6. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2021), Báo cáo tổng kết Chiến lược Tài chính đến năm 2020 và xây dựng Chiến lược Tài chính giai đoạn 2021 - 2030.

7. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2014), Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau 5 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.

Tiếng Anh

8. WTO (2013), Trade Policy Review: Vietnam.

9. WTO (2016), Trade Policy Review: Russia Federation.

10. WTO (2018), Trade Policy Review: China.

11. WTO (2020), Trade Policy Review: Thailand.

Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam số 6/2021

*1 Nghị định số 32/2017/NĐ-CP thay thế Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, Nghị định số 54/2013/NĐ-CP ngày 22/ 5/ 2013 và Nghị định số 133/2013/NĐ-CP ngày 17/ 10/ 2013 của Chính phủ bổ sung Nghị định số 75/2011/NĐ-CP về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%