Nguyễn Thị Thu Trang
Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV
Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế số hàng đầu khu vực ASEAN trong bối cảnh công nghệ mới ngày càng phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa đo lường được quy mô kinh tế số theo chuẩn mực quốc tế; chưa phản ánh chính xác được quy mô, mức độ đóng góp của kinh tế số vào tăng trưởng, phát triển kinh tế. Bài viết tập trung phân tích thực trạng đo lường quy mô kinh tế số Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm đo lường chính xác quy mô kinh tế số của Việt Nam.
Từ khóa: Đo lường quy mô kinh tế số; kinh tế số và đo lường quy mô kinh tế số Việt Nam; kinh nghiệm đo lường quy mô kinh tế số.
In the context of the develoment of new technologies promoting the process of digita; transformation, Vietnam is the country with the leading digital economic growth rate in the ASEAN region. However, Vietnam has not yet measured the scale of the digital economy by international standards; as well as has not accurately reflected the scale and extent of the digital economy's contribution to economic growth and development. The article focuses on analyzing the current situation of measuring the scale of Vietnam's digital economy, consulting international experiences and proposing some policy recommendations to accurately measure the scale of Vietnam's digital economy.
Keywords: Measuring the scale of the digital economy; digital economy and measuring the scale of Vietnam's digital economy; experiences of measuring digital economies of scale.
1. Đo lường về kinh tế số trên thế giới
1.1. Định nghĩa về kinh tế số
Kinh tế số là khái niệm rộng và khó đo lường cụ thể, đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất và chính thức về kinh tế số. Các tổ chức quốc tế đã đưa ra khá nhiều định nghĩa và nội hàm khác nhau về thuật ngữ này. Theo nghĩa hẹp (kinh tế số lõi) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD (2019) và Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển - UNCTAD (2019), kinh tế số chỉ bao gồm ngành công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) như sản xuất thiết bị công nghệ thông tin - CNTT (phần cứng, phần mềm) và thiết bị bán dẫn, các dịch vụ viễn thông và internet (nội dung số và truyền thông số), xử lý dữ liệu và dịch vụ CNTT.
Theo nghĩa hẹp, UNCTAD (2019) và G20 (2016) cho rằng, kinh tế số bao gồm khu vực lõi (ngành ICT), dịch vụ số, kinh tế nền tảng, một bộ phận của kinh tế chia sẻ và kinh tế gắn kết linh hoạt hay kinh tế việc làm tự do.
Theo nghĩa rộng, OECD (2019) và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc - UNDP (2018) cho rằng, kinh tế số bao gồm toàn bộ các lĩnh vực hoạt động sử dụng nền tảng ICT như internet, mạng di động và mạng cảm biến. Theo OECD (2019), kinh tế số bao gồm tất cả các hoạt động của các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp, người tiêu dùng, Chính phủ) liên quan đến việc sử dụng các đầu vào số (công nghệ số, cơ sở hạ tầng số, dịch vụ số và dữ liệu số.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2018), kinh tế số cũng được định nghĩa theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng, song với cách tiếp cận rộng hơn so với các tổ chức khác (như OECD, UNDP, G20 và UNCTAD), khái niệm kinh tế số lõi của IMF tương đương với kinh tế số theo nghĩa tương đối hẹp của OECD và G20 bao gồm ngành ICT, các nền tảng trực tuyến, kinh tế chia sẻ, kinh tế gắn kết linh hoạt. Kinh tế số theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội được hình thành và diễn ra trên nền tảng số.
Đồng thời, IMF chú trọng đo lường quy mô kinh tế số (khác biệt so với đo lường quy mô kinh tế truyền thống) trên 3 góc độ: (i) Phạm vi GDP trong kinh tế số rộng hơn (có thể dùng chỉ số “GDP cộng” để đo lường tác động của kinh tế số đến sự tăng trưởng của phúc lợi xã hội, sản phẩm phi thị trường, dịch vụ miễn phí do hưởng lợi từ kinh tế số - các vấn đề nằm giữa phạm vi “kinh tế và xã hội” và có thể thuộc phạm trù “hàng hóa công cộng”); (ii) Đo lường giá cả sản phẩm, dịch vụ số và sự thay đổi nhóm hàng hóa, trọng số hàng hóa trong rổ đo lường chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá sản xuất (PPI) và lạm phát tổng thể (bao gồm cả sự thay đổi giá liên tục của Smartphone, thương mại điện tử, kinh tế chia sẻ, dịch vụ hay phần mềm miễn phí do mức độ phổ biến của mạng 4G và 5G, sản phẩm phi thị trường do hưởng lợi từ sản phẩm, dịch vụ số); (iii) Sự phức tạp trong đo lường quy mô của các lĩnh vực số mới, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế (ngoài kinh tế ngầm, kinh tế phi chính thức) như các nền tảng số, kinh tế chia sẻ, các giao dịch xuyên biên giới.
Như vậy, sự phát triển kinh tế số gắn liền với sự phát triển của ICT và các mô hình kinh tế mới như mô hình kinh doanh nền tảng, kinh tế chia sẻ, kinh tế gắn kết linh hoạt hay kinh tế việc làm tự do... Điều này đặt ra yêu cầu mới về đo lường quy mô kinh tế số, đóng góp của các ngành kinh tế số đối với nền kinh tế.
1.2. Đo lường quy mô kinh tế số - một số kinh nghiệm và tiêu chí quốc tế
Qua nghiên cứu các tài liệu của các tổ chức quốc tế (như OECD, G20, IMF, Ngân hàng Thế giới - WB, Ngân hàng Phát triển châu Á - ADB, UNDP…), các nước trên thế giới chủ yếu sử dụng phương pháp đo lường kinh tế số dựa trên phương pháp của OECD, đó là phương pháp đo lường quy mô kinh tế số theo giá trị gia tăng và việc làm với cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, quy mô kinh tế số bao gồm giá trị gia tăng của ngành ICT và tổng số việc làm trong ngành này. Trong đó, ngành ICT gồm 12 nhóm hàng hóa và dịch vụ khác nhau thuộc 2 nhóm chính: hàng hóa/thiết bị ICT (gồm thiết bị tin học văn phòng, viễn thông, đo lường, điện tử và quang học, máy tính); dịch vụ ICT (gồm dịch vụ viễn thông, phần mềm và thông tin). Theo nghĩa rộng, quy mô kinh tế số được xác định thông qua giá trị gia tăng của các giao dịch số và đóng góp của ICT vào giá trị gia tăng của các ngành, lĩnh vực kinh tế số.
Vận dụng linh hoạt phương pháp luận của OECD, các nước thuộc khối OECD (37 quốc gia) và nhiều quốc gia khác đã và đang xác định quy mô kinh tế số theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Nhiều quốc gia đã và đang xây dựng bộ chỉ tiêu đo lường quy mô kinh tế số và đánh mức độ chuyển đổi số phù hợp với thực tế hoạt động của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Trong đó, kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, Trung Quốc đã sử dụng bảng cân đối liên ngành (I/O) để xác định các ngành/nhóm ngành thuộc lĩnh vực ICT, từ đó đo lường đóng góp của ngành ICT trong GDP; sử dụng kết quả điều tra dân số (tiến hành 10 năm/lần) để xác định quy mô lao động trong ngành ICT nói riêng và các lĩnh vực số nói chung (Phụ lục 1).
Một số bài học rút ra từ kinh nghiệm đo lường kinh tế số là: (i) Cần xác định ngành ICT (có thể cùng với thương mại điện tử - TMĐT) luôn là ngành quan trọng đối với việc đo lường quy mô kinh tế số; (ii) Hệ thống các chỉ tiêu được lựa chọn và xác định đo lường kinh tế số cần theo hướng có thể đo lường được, mà không phải là các chỉ tiêu định tính và xác định được nguồn cụ thể, đáng tin cậy; (iii) Hệ thống chỉ tiêu cần cập nhật phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số; hướng tới việc so sánh quốc tế về quy mô kinh tế số; (iv) Hệ thống các chỉ tiêu được xây dựng từ hai nguồn dữ liệu là hệ thống dữ liệu thô và hệ thống dữ liệu đã qua xử lý, đảm bảo mức độ linh hoạt, chuẩn hóa, tăng khả năng thay thế của các nguồn dữ liệu, hạn chế rủi ro liên quan đến dữ liệu, bảo mật, an ninh mạng.
2. Thực trạng đo lường kinh tế số của Việt Nam
2.1. Kết quả đạt được
Kinh tế số Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khá cao (trung bình 29%) trong giai đoạn 2019 - 2021; quy mô kinh tế số của Việt Nam năm 2021 ước đạt 21 tỷ USD, chiếm khoảng 6% GDP, xếp thứ 3/6 cùng với Malaysia, với sự phát triển năng động của các khu vực/ngành kinh tế mới nổi như: ICT, viễn thông, thương mại điện tử, công nghệ tài chính, công ty công nghệ lớn, Công nghệ y tế, giáo dục1…(Hình 1).
Hình 1. Kinh tế số Việt Nam và các nước ASEAN, 2019 - 2025

Nguồn: Google, Temasek, Bain&Company 2021
Nhờ sự hoàn thiện về pháp lý, môi trường kinh doanh, từng bước hiện đại hóa hạ tầng số và nâng cao trình độ lao động số, vị trí của Việt Nam trong bản đồ chuyển đổi số của thế giới có sự bứt phá qua từng năm. Việt Nam được xếp hạng cao trong cả 4 chỉ số xếp hạng chuyển đổi số phổ biến nhất toàn cầu. Đáng chú ý, Chỉ số trí tuệ kỹ thuật số của Trung tâm Kinh doanh toàn cầu - Đại học Tufts - Hoa Kỳ (2020), Việt Nam thuộc nhóm “bứt phá” cùng với Thái Lan, Indonesia và Campuchia nhờ sự phát triển nhanh chóng các công nghệ kỹ thuật số và tận dụng lợi thế để đi tắt đón đầu trong chuyển đổi kỹ thuật số. Chỉ số sẵn sàng kỹ thuật số toàn cầu của Việt Nam đang ở giai đoạn “Tăng tốc” (giai đoạn giữa của mức độ sẵn sàng số) cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia; cao hơn Philippines, Indonesia, Campuchia, Lào, Myanmar, cho thấy Việt Nam có nhiều cơ hội để bắt kịp với các quốc gia hàng đầu về mức độ sẵn sàng số hóa. Trong Chỉ số kết nối toàn cầu (GCI), Việt Nam nằm trong nhóm “Tiếp nhận”, xếp thứ 55/79 trên toàn cầu và thứ 5 trong ASEAN sau Singapore (2), Malaysia (34), Thái Lan (46), Campuchia (54); cao hơn Indonesia (58) và Philippines (59). Theo Chỉ số chấp nhận kỹ thuật số (DAI) và khung CHIP của WB (kết nối, nắm bắt, đổi mới sáng tạo và an ninh mạng), Việt Nam được xếp hạng cùng với Thái Lan và Indonesia, sau Singapore, Malaysia và Philippines nhờ kết quả tích cực trong một số lĩnh vực như kết nối internet, sự phát triển Chính phủ số và ứng dụng công nghệ số của doanh nghiệp.
Mức độ kết nối cao
Theo Digital Vietnam 2021 của Hootsuite và We are social (2021), tỷ lệ người sử dụng internet, mạng xã hội và kết nối di động của Việt Nam lần lượt ở mức 70,3%, 73,7% và 160%, cao hơn mức trung bình toàn cầu. So với các nước ASEAN, Việt Nam đang dẫn đầu về công nghệ 5G, tỷ lệ người dùng internet lớn thứ 3, tỷ lệ kết nối di động cao thứ 2 và tốc độ kết nối di động trung bình nhanh thứ 2 khu vực, cao hơn Indonesia, Lào, Campuchia, Philippines. Cable.co.uk (Anh) cho rằng, Việt Nam thuộc Top 10 nước có giá cước truy cập internet di động thấp nhất thế giới (0,57 USD/1 GB), thấp hơn nhiều nước ASEAN (Indonesia, Myanmar, Malaysia, Lào) và nhiều nước phát triển (Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản). Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) năm 2021 của Việt Nam xếp 44/132 toàn cầu, thứ nhất trong số 31 quốc gia có thu nhập trung bình thấp và thứ 3 trong ASEAN, sau Singapore và Malaysia.
Sự “bùng nổ” của ngành ICT
Chủ trương “Make in VietNam” là nền tảng quan trọng tạo giá trị đột biến cho toàn ngành ICT. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, ICT là ngành tăng trưởng nhanh nhất tại Việt Nam, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm kép (CAGR) của ngành ICT là 26,1% trong giai đoạn 2016 - 2020; Việt Nam chiếm 3% tỷ trọng xuất khẩu ICT toàn cầu, đứng thứ 5 trên thế giới, cao hơn nhiều nước có trình độ CNTT cao tại châu Á như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Malaysia… Theo Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Chỉ số phát triển công nghệ thông tin (IDI) của Việt Nam có sự cải thiện tích cực, dự kiến đạt vị trí 77/176 năm 2019, tăng 31 bậc so với năm 20172 và đứng thứ 5/10 khu vực ASEAN; chỉ số ứng dụng ICT theo GCI 2019 - 2020 đã tăng hơn 50 bậc, từ 95 lên 41/140.
Hình 2. Top 10 nền kinh tế có tỷ trọng xuất khẩu CNTT
so với tổng kim ngạch xuất khẩu
Đơn vị: %

Nguồn: UNCTAD, WB
Tốc độ phát triển thương mại điện tử cao trong khu vực ASEAN: Theo Google & Temasek, tốc độ tăng trưởng CAGR của quy mô thị trường TMĐT Việt Nam bình quân đạt 37,5% trong giai đoạn 2016 - 2020, là mức cao trong khu vực ASEAN, do Việt Nam có số lượng đáng kể người tiêu dùng trực tuyến mới. Cụ thể, Việt Nam có 8 triệu người tiêu dùng trực tuyến chỉ trong 2 năm 2020 - 2021 và 99% trong số những người tiêu dùng mới sẽ tiếp tục mua sắm trực tuyến sau đại dịch; tỷ lệ mua sắm trực tuyến đạt 70,3% dân số năm 2020, gấp 2,3 lần năm 2018; giá trị mua sắm online bình quân/người năm 2020 đạt khoảng 410 USD, gấp 2,5 lần năm 2015. Theo Sách trắng TMĐT Việt Nam năm 2019, doanh nghiệp Việt Nam kết nối cao với thị trường quốc tế, theo đó số lượng sàn giao dịch TMĐT năm 2021 gấp 3,5 lần năm 2016; các trang TMĐT Việt Nam như Tiki, Sendo được ưa thích và xếp hạng cao cùng với các sàn TMĐT khu vực như Lazada, Shopee.
Nguồn: Statista và Emarketer 2020
Nguồn: Q&Me 20203
Sự sôi động của các hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo
Theo khảo sát của NIC và Do Ventures năm 2020, Việt Nam được đánh giá là điểm đến hàng đầu cho khởi nghiệp trong giai đoạn 2021 - 2022 cùng với Indonesia. Việt Nam đứng thứ ba về số thương vụ và vốn đầu tư trong ASEAN giai đoạn 2018 - 2020, trong đó công nghệ tài chính, thanh toán, bán lẻ, giáo dục là những lĩnh vực chiếm ưu thế. Theo Công ty Tư vấn Solidiance, quy mô thị trường công nghệ tài chính Việt Nam đạt khoảng 8 tỷ USD năm 2020, gấp 2 lần năm 2017, đứng thứ 4 khu vực ASEAN-6. Việt Nam thu hút 2/12 “kỳ lân” ASEAN, VNG và VNPay với các dịch vụ/sản phẩm đa dạng trên nền tảng: trò chơi trực tuyến, thương mại điện tử, dịch vụ tài chính số, công nghệ tài chính và công nghệ mới.
Một số nền tảng mới trong lĩnh vực giáo dục và y tế đóng góp tích cực trong giai đoạn dịch bệnh
Theo nghiên cứu của Ambient Insight (Hoa Kỳ), Việt Nam thuộc Top 10 thị trường có tốc độ tăng trưởng E-learning lớn nhất thế giới, với tỷ lệ tăng trưởng 40% trong giai đoạn 2018 - 2020. Theo báo cáo của PISA của OECD (2020), 79,7% học sinh Việt Nam đã được học trực tuyến, cao hơn mức trung bình chung của các nước thành viên OECD (67,5%). Về y tế, tính đến tháng 9/2020, Bộ Y tế đã hoàn thành hơn 1.000 điểm cầu khám, chữa bệnh từ xa; phát triển nền tảng tư vấn sức khỏe online VOV BACSI24, telehealth có thể kết nối mọi lúc, mọi nơi với các bác sĩ thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau, góp phần kiểm soát tốt dịch Covid-19 và tăng cường năng lực khám, chữa bệnh.
Tài chính số và thanh toán điện tử phát triển mạnh
Tính đến tháng 10/2021, có 78 tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán qua internet; 45 tổ chức cung ứng dịch vụ mobilepayment; 34/37 tổ chức phi ngân hàng được cung cấp dịch vụ ví điện tử với các công nghệ hàng đầu thế giới như: xác thực sinh trắc học (vân tay, khuôn mặt...); QR Code; NFC; Tokenization; thanh toán phi tiếp xúc, tương tác thực tế… Theo Báo cáo khảo sát tiêu dùng toàn cầu của PwC (2019), Việt Nam là thị trường tăng trưởng thanh toán di động và thanh toán điện tử cao nhất thế giới và khu vực ASEAN; tăng trưởng thanh toán ví điện tử đạt 35%/năm. Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 8/2020, số tài khoản cá nhân đạt 95,6 triệu tài khoản, tăng 45,5% so với cùng kỳ năm 2016; có 13 triệu ví điện tử đang được kích hoạt (gấp 3,1 lần năm 2018); giá trị thanh toán di động, thanh toán internet và thanh toán qua POS tăng ấn tượng, tương ứng tăng 794%, 353,1% và 139,5% so với cùng kỳ năm 2016.
Xếp hạng cao về bảo mật thông tin và an ninh mạng trên thị trường quốc tế
Theo Báo cáo của ITU năm 20194, chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu (GCI) của Việt Nam được cải thiện tích cực, xếp 50/175 quốc gia được xếp hạng, tăng 50 bậc so với năm 2017, vượt 30 bậc so với mục tiêu; xếp thứ 11 châu Á - Thái Bình Dương và thứ 5 ASEAN. Lần đầu tiên Việt Nam được đánh giá vào nhóm các quốc gia có độ cam kết cao về an toàn, an ninh mạng. Việt Nam cũng được đánh giá là nước có số lượng mã độc di động thấp thứ 2 ở Đông Nam Á, chỉ sau Singapore.
2.2. Vấn đề đặt ra
Mặc dù đạt được một số kết quả ấn tượng trong phát triển kinh tế số, Việt Nam cũng đang đối diện với những hạn chế, bất cập về đo lường quy mô kinh tế số, nhận thức về chuyển đổi số, pháp lý; hạ tầng số và chất lượng nguồn nhân lực, hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; rủi ro an toàn, an ninh mạng, bảo mật thông tin; trong khi mức độ sẵn sàng cho số hóa của Việt Nam còn thấp so với khu vực ASEAN5.
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019, Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020, Quyết định 2889/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đưa ra định hướng, lộ trình, mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển kinh tế số - xã hội số - chính quyền số đến năm 2025, tầm nhìn 2030, cùng với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc đo lường quy mô kinh tế số của Việt Nam đang gặp phải một số vấn đề:
Bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số - DTI6 còn hạn chế
Đến nay, Việt Nam chưa công bố hay áp dụng chuẩn mực quốc tế nào trong đo lường quy mô kinh tế số. Bên cạnh đó, Việt Nam có quá nhiều chỉ số thành phần (108 chỉ số thành phần và 306 tiêu chí) về đánh giá mức độ chuyển đổi số, trong khi phương pháp tính giá trị của các chỉ số chưa được giải thích rõ. Đồng thời, Việt Nam cũng chưa có bộ chỉ số chi tiết đo lường chuyển đổi số cấp quốc gia, mới chỉ có các phụ lục cho cấp tỉnh, thành phố và cấp bộ, ngành; các chỉ tiêu chuyển đổi số cấp bộ, ngành chủ yếu là định tính, liên quan nhiều đến cải cách thủ tục hành chính.
Riêng đối với bộ chỉ tiêu kinh tế số với 36 chỉ số thành phần cũng còn một số hạn chế như: chưa nhất quán với 8 lĩnh vực, ngành ưu tiên chuyển đổi số theo Quyết định số 749/QĐ-TTg; thang đo của các ngành, chỉ số thành phần chưa thống nhất (một số ngành tính theo doanh thu như ICT, viễn thông, internet, TMĐT; các ngành còn lại dùng chỉ tiêu khá chung chung là hoạt động chuyển đổi số); một số chỉ tiêu còn chung chung, khó lượng hóa như thúc đẩy hoạt động kinh doanh số, thương mại điện tử; doanh thu trong lĩnh vực kinh doanh số...
Việt Nam chưa có Bộ chỉ tiêu đo lường kinh tế số, do đó, chưa có đủ cơ sở để khẳng định tính chính xác, đầy đủ về phạm vi, các cấu phần của kinh tế
Quy mô kinh tế số Việt Nam theo đánh giá của Google, Temasek và Bain and Company còn có sự chênh lệch so với số liệu mà Bộ Thông tin và Truyền thông, cũng như các bộ, ngành liên quan của Việt Nam công bố. Theo Báo cáo E-conomy Sea (2021), kinh tế số của Việt Nam đạt 21 tỷ USD, tương khoảng 6% GDP (đánh giá dựa trên 5 lĩnh vực)7, song vẫn thấp hơn con số do Bộ Thông tin và Truyền thông công bố là 8,2% GDP năm 2020 (đánh giá dựa trên ngành CNTT). Nguyên nhân chủ yếu là do chưa có Bộ chỉ tiêu đo lường kinh tế số nên cơ sở đánh giá, đo lường khác nhau và kết quả khác nhau. Đồng thời, do hạn chế về số liệu, nhiều lĩnh vực mới như y tế - giáo dục số chưa đo lường được.
Thước đo kinh tế số chưa được khẳng định chắc chắn là theo doanh thu hay giá trị gia tăng
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều và phụ lục danh mục chỉ tiêu thông kê quốc gia của Luật Thống kê năm 2021 xác định, tỷ trọng kinh tế số/GDP được đo bằng giá trị tăng thêm (Nhóm 5 - Tài khoản quốc gia). Tuy nhiên, việc thống kê, đánh giá quy mô của ngành CNTT, TMĐT, các nền tảng số và kinh doanh trực tuyến vẫn đang tính theo doanh thu (Nhóm 13 - CNTT, bưu chính viễn thông và truyền thông).
Nếu tính theo doanh thu của 6 ngành thuộc ngành công nghiệp ICT năm 2020 thì quy mô kinh tế số Việt Nam (dù là theo nghĩa hẹp nhất) đã lên tới 38% GDP; còn nếu tính theo giá trị gia tăng (doanh thu trừ chi phí trung gian và giá trị đầu vào nhập khẩu) của các ngành thuộc ngành ICT theo bảng I/O Việt Nam thì đóng góp của ngành ICT chỉ khoảng 6 - 8% GDP (tương đương mức công bố của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2020 là 8,2% GDP). Đây cũng là vấn đề mà nhiều nước OECD, Trung Quốc đã gặp phải khi chưa xác định được chính xác, đầy đủ về phương pháp luận, cách tính và các chỉ tiêu đo lường kinh tế số. Nếu tính doanh thu của ngành ICT thì quy mô kinh tế số của Ai-len lên tới 87% GDP và Trung Quốc lên tới 32% GDP, song nếu tính theo giá trị gia tăng thì chỉ khoảng 12,5% và 6% GDP.
Sự chưa nhất quán so với quốc tế trong thành phần đo lường quy mô khu vực kinh tế số lõi
Nhiều phân ngành thuộc ngành ICT theo bảng I/O mới nhất của Việt Nam (Bảng I/O năm 2012) đã có mức độ tương đồng, có thể quy đổi theo chuẩn của OECD, song vẫn còn hạn chế: (i) Một số phân ngành có mức độ tương đồng thấp, thiếu cập nhật (mã I/O 78 - Thiết bị truyền thông chỉ bao gồm một số thiết bị điện thoại, máy fax, ăng ten, moden, trong khi thiết bị truyền thông theo chuẩn ISIC (mục 4, 5 - OECD) rất đa dạng như máy quay phim, thiết bị phòng thu, cổng USB, điều khiển từ xa, cáp vô tuyến, điện thoại di động, điện thoại không dây…; (ii) Một số ngành, lĩnh vực có mức độ liên quan ít đến ICT theo mã 8 của OECD, song chưa thể bóc tách, loại trừ chính xác, chẳng hạn như mã I/O 79 - Sản phẩm điện tử dân dụng và 162 - Dịch vụ sửa chữa máy tính, đồ dùng cá nhân và gia đình…); (iii) Một số phân ngành chưa xác định được phân ngành tương ứng với chuẩn ISIC (mục 1, 3, 7 của OECD).
Nhiều chỉ tiêu về phát triển kinh tế số còn chung chung, chưa rõ ràng, chưa thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả, tính khả thi thực tiễn
Một số chỉ tiêu theo Quyết định số 749/QĐ-TTg và Quyết định số 1726/QĐ-BTTT như tỷ trọng kinh tế số tối thiểu trong từng ngành, lĩnh vực; tỷ trọng đóng góp của kinh tế số vào GRDP địa phương chưa rõ gồm ngành, lĩnh vực nào (8 lĩnh vực ưu tiên hay tất cả các ngành) và chỉ tiêu nào để đo lường kinh tế số các ngành, lĩnh vực. Bên cạnh đó, việc xác định 8 ngành, lĩnh vực ưu tiên chưa có đủ căn cứ và còn thiếu (thiếu ngành quan trọng là ICT, một số ngành truyền thống có mức độ ưu tiên cao song mức ứng dụng công nghệ số trong việc tạo giá trị gia tăng còn thấp, như nông nghiệp, năng lượng, tài nguyên môi trường…); chưa thống nhất theo chuẩn phân ngành (chẳng hạn như “sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, tài chính - ngân hàng” là ngành cấp 1, trong khi giao thông vận tải và logistics, năng lượng là ngành cấp 2, cấp 3). Ngoài ra, nhiều chỉ tiêu trong DTI mang tính định tính và sẽ khó đo lường trong thực tế.
Vấn đề đo lường kinh tế số Việt Nam tồn tại nhiều bất cập như trên là do năng lực thống kê còn nhiều bất cập, số liệu thống kê, nguồn số liệu chưa thống nhất, chưa được chuẩn hóa; sự phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ mới, nền tảng số, kinh tế chia sẻ; khu vực kinh tế phi chính thức, kinh tế ngầm vẫn chưa được phản ánh, đo lường đầy đủ trong GDP.
3. Một số khuyến nghị chính sách đối với đo lường quy mô kinh tế số
Để có thể xác định phạm vi, đo lường chính xác, đầy đủ hơn quy mô kinh tế số và đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong quá trình triển khai thực hiện Quyết định số 749/QĐ-TTg về phát triển kinh tế số trên cả góc độ vĩ mô và vi mô cần thực hiện:
Sớm xây dựng Bộ chỉ tiêu thống kê, đo lường quy mô nền kinh tế số theo tiêu chuẩn quốc tế
Việt Nam cần nghiên cứu, tham khảo, áp dụng định nghĩa, phương pháp đo lường kinh tế số của OECD, IMF và Trung Quốc, đồng thời nên có phân đoạn trong việc áp dụng nhằm đảm bảo tính khả thi. Trong giai đoạn 1 (2021 - 2025): Có thể kết hợp giữa định nghĩa của OECD, G20, IMF, Google, Temasek và Bain & Company và Quyết định số 749/QĐ-TTg để xác định quy mô nền kinh tế số của Việt Nam theo phạm vi tương đối hẹp, có thể bao gồm ngành ICT, TMĐT và một số ngành trong 8 lĩnh vực, ngành ưu tiên (như tài chính - ngân hàng, logistics, công nghiệp chế biến - chế tạo, y tế, giáo dục); các ứng dụng, nền tảng số, một bộ phận của kinh tế chia sẻ, kinh tế gắn kết linh hoạt (có thể đo lường được).
Giai đoạn 2 (từ năm 2026): Bổ sung thêm các ngành ưu tiên, các nền tảng số, kinh tế chia sẻ và kinh tế gắn kết linh hoạt trên cơ sở hoàn thiện hơn về số liệu thống kê và khả năng đo lường.
Việt Nam cũng cần thống nhất sử dụng “giá trị gia tăng” trong đo lường quy mô kinh tế số thay cho “doanh thu”, từ đó giúp phản ánh đúng bản chất, đo lường chính xác, thực chất về quy mô kinh tế số của ngành, lĩnh vực và toàn nền kinh tế.
Tăng cường năng lực thống kê, đo lường kinh tế số
Hệ thống chỉ tiêu thống kê Việt Nam theo Luật Thống kê năm 2021 cần được chuẩn hóa, cập nhật theo tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống tài khoản quốc gia, cán cân thanh toán quốc tế, tiêu chuẩn phân ngành, mã VSIC, mã I/O, đo lường lạm phát… Đồng thời, cần xây dựng 2 hệ thống dữ liệu (thô và chuẩn hóa) để đo lường quy mô kinh tế số nhằm đảm bảo khả năng linh hoạt, cập nhật, phòng ngừa rủi ro liên quan đến bảo mật, an toàn thông tin, dữ liệu. Việc thống nhất thang đo, quy đổi thành chỉ số có thể đo lường đối với 8 ngành, lĩnh vực ưu tiên và bộ chỉ tiêu kinh tế số sớm được triển khai, đồng thời xác định được nguồn dữ liệu thống kê chính thống, đáng tin cậy cho các số liệu đó.
Việt Nam cũng cần chú trọng công tác thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát, bao gồm cả kinh tế không chính thức và kinh tế ngầm, nhằm phản ánh chính xác quy mô GDP Việt Nam, đóng góp của kinh tế số vào GDP, cũng như tình trạng việc làm, thu nhập. Các chỉ tiêu về xã hội số (Phần C - Phụ lục 1.4 của Quyết định số 1726/QĐ-BTTTT) cũng cần được xác định theo hướng “có thể đo lường được và có nguồn dữ liệu”, chứ không phải là chỉ tiêu định tính (chăm sóc sức khỏe, hạ tầng đô thị, giáo dục đào tạo, môi trường… Chính phủ có thể tham khảo, áp dụng các chỉ tiêu đánh giá, đo lường của IMF và các tổ chức quốc tế khi xây dựng các chỉ tiêu xã hội số của Việt Nam.
Tăng cường phối hợp quốc tế trong đánh giá về mức độ phát triển của kinh tế số
Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế như IMF, WB, UNCTAD, OECD trong việc xây dựng, hoàn thiện Bộ chỉ số chuyển đổi số Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế cần được quan tâm hơn. Cơ quan thống kê Việt Nam cần tiến tới sử dụng dữ liệu lớn để có thể phối hợp, chia sẻ dữ liệu, thống kê về kinh tế số với các tổ chức, cơ quan thống kê quốc tế, đặc biệt là dữ liệu về giao dịch xuyên biên giới, nền tảng số, dịch vụ tiền di động - mobile money, thanh toán số, tiền kỹ thuật số…
Hoàn thiện, chi tiết hóa Bộ chỉ tiêu DTI của Việt Nam; tham khảo 4 Bộ chỉ số đánh giá về phát triển kinh tế số toàn cầu của 4 tổ chức quốc tế đang được chấp nhận rộng rãi (IMF với Chỉ số sử dụng kỹ thuật số; Chỉ số kết nối toàn cầu của Tập đoàn Huawei; Chỉ số trí tuệ số của Trường Fletcher - Đại học Tufts - Hoa Kỳ; Chỉ số sẵn sàng chuyển đổi số toàn cầu của Tập đoàn CISCO - Hoa Kỳ).
Nâng cao hiệu quả, chất lượng thu thập thông tin, số liệu về kinh tế số và mức độ chuyển đổi số
Việt Nam cần nghiên cứu, sửa đổi Chương trình điều tra thống kê quốc gia năm 2016, đảm bảo sự phù hợp giữa Luật Thống kê sửa đổi, Chương trình điều tra thống kê quốc gia và sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, sản phẩm - dịch vụ mới, vòng đời sản phẩm, sự xuất hiện của các dịch vụ, phần mềm miễn phí trong nền kinh tế số. Cùng với đó, Việt Nam cần lưu ý bổ sung các khái niệm mới, sản phẩm, dịch vụ mới trên nền tảng số vào rổ hàng hóa và trọng số tính các chỉ tiêu quan trọng như CPI, PPI, GDP; tăng cường phối kết hợp giữa các bộ, ngành chức năng, doanh nghiệp và địa phương trong việc phối hợp, thu thập, công bố các chỉ tiêu thống kê để đảm bảo hiệu quả cao nhất của các chỉ tiêu thống kê về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, góp phần phản ánh đúng, đủ, khách quan tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về kinh tế số, chuyển đổi số và đo lường quy mô kinh tế số
Để nâng cao nhận thức về kinh tế số, cần đa dạng hóa và áp dụng phương thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng về chuyển đổi số, phát triển khoa học công nghệ theo hướng nâng cao lợi ích, thu nhập của bản thân từng đối tượng, từ đó tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả phát triển kinh tế xã hội. Hơn nữa, việc phổ biến, hướng dẫn cách thức đo lường kinh tế số trong doanh nghiệp, các ngành cần được đẩy mạnh, từ đó giúp doanh nghiệp xây dựng được mục tiêu, lộ trình, kịch bản cho phát triển kinh tế số tại đơn vị, từ đó góp phần đóng góp cho các mục tiêu phát triển kinh tế số của Việt Nam. Công tác bảo mật thông tin và an ninh mạng khi tham gia các giao dịch điện tử, tài chính số, nền tảng số cũng cần được tăng cường tuyên truyền để gia tăng lợi ích, hạn chế rủi ro về tội phạm tài chính.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và PwC (2017), Tiêu điểm Việt Nam - Thị trường mới nổi hàng đầu.
2. Tổng cục Thống kê (2015), Bảng cân đối liên ngành (I/O) của Việt Nam năm 2012.
3. Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV (2021), Hình hài Việt Nam năm 2045, tháng 3/2021.
Tiếng Anh
4. AlphaBeta (2021): Unlock Vietnam’s Digital Potential: Harnessing the Economic Opportunities of the Digital Transformation with google’s Contribution.
5. Google, Temasek, Bain & Company - E-conomy Sea 2016 - 2021.
6. Huawei (2020), Global Connectivity Index Report and Methodology, https://www.huawei.com/minisite/gci/en/methodology.html.
7. IMF (2019), China’s Digital Economy: Opportunities and Risks.
8. OECD - Report for the G20 Digital Economy Task Force (2020), A Roadmap toward a Common Framework for the Measuring the Digital Economy.
9. The Fletcher School at Tufts University (2020), Digital in the time of Covid - Trust in the Digital Economy and Its Evolution Across 90 Economies as the Planet Paused for a Pandemic.
10. UNCTAD (2019), Digital Economy Report, Value Creation and Capture: Implication for the Development Countries.
11. WB - WDR (2016), Team Digital Adoption Index (DAI): Measuring the Global Spread of Digital Technologies.
Phụ lục 1. Tổng hợp Nhóm chỉ tiêu/Bộ chỉ số/các vấn đề trong đo lường kinh tế số của các tổ chức quốc tế, các nước trên thế giới
kinh tế số
ITU, UIS, Bộ Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc (UNDESA), WB
(Sáng kiến Hợp tác đo lường lĩnh vực ICT cho phát triển, bắt đầu áp dụng từ năm 2004).
đối hẹp
nghĩa rộng
(cách tiếp cận rộng hơn các tổ chức khác)
- Nghĩa rộng: gồm
tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội được hình thành và diễn ra trên nền tảng số.
Nhóm chỉ tiêu
đo lường quy mô
kinh tế số
|
Tổ chức quốc tế sử dụng
(tên tài liệu, năm áp dụng)
|
Liên minh châu Âu - EU (27 quốc gia)
|
Châu Á - Thái Bình Dương (22 quốc gia)
|
Tây Á (20 quốc gia)
|
Châu Mỹ La-tinh và Caribe (64 quốc gia)
|
Châu Phi (54 quốc gia)
|
36 chỉ tiêu chính theo 4 nhóm: hạ tầng kinh tế số (8 chỉ số thành phần); xã hội số (8); đổi mới, sáng tạo và áp dụng công nghệ (8); đóng góp của kinh tế số đối với tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất và việc làm (12).
|
OECD, Nhóm công tác về kinh tế số của G20 (Bộ công cụ đo lường kinh tế số trên cơ sở phương pháp của OECD, bắt đầu áp dụng từ năm 2018).
|
EU (27 quốc gia) + 18 quốc gia ngoài EU (Úc, Brazil, Canada, Chile, Trung Quốc, Iceland, Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, New Zealand, Na Uy, Nga, Serbia, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Hoa Kỳ).
|
Nghĩa rộng
|
37 chỉ tiêu kinh tế - xã hội số (DESI) và 24 chỉ tiêu có tính quốc tế (I-DESI) theo 5 nhóm: khả năng kết nối; nguồn vốn con người; mức độ sử dụng dịch vụ Internet; tích hợp công nghệ số (trong các doanh nghiệp và thương mại điện tử); mức độ số hóa các dịch vụ công.
|
Ủy ban châu Âu (EC) và các nước đã nêu (Bộ chỉ số kinh tế - xã hội số - DESI) và Bộ chỉ số có tính chất quốc tế (I-DESI), được cập nhật định kỳ; bắt đầu áp dụng từ năm 2014 đối với DESI và từ năm 2018 đối với I-DESI.
|
IMF (đo lường nền kinh tế số, 2018): Định nghĩa về kinh tế số và các khuyến nghị, lưu ý về đo lường kinh tế số.
|
Nguồn: WB, IMF, OECD, UNCTAD, UNDESA, G20, EC
Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam số 6/2021
*1 Theo E-conomy SEA 2021 Report.
*2 ITU chưa công bố Bảng xếp hạng năm 2018, 2019 do đang nghiên cứu, thống nhất về phương pháp tính toán mới và ảnh hưởng của dịch Covid-19.
*3 https://qandme.net/vi/lien-he.html (Q&Me được điều hành bởi ASIA Plus Inc, chuyên cung cấp dịch vụ nghiên cứu thị trường Việt Nam (xu hướng tiêu dùng và suy nghĩ của người tiêu dùng) thông qua khảo sát định lượng và khảo sát định tính trực tuyến).
*4 Báo cáo chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu (GCI) toàn cầu được ITU thực hiện định kỳ hai năm một lần, dựa trên 5 trụ cột: pháp lý, kỹ thuật, tổ chức, nâng cao năng lực, hợp tác.
*5 Theo đánh giá của CISCO (2019), Việt Nam chỉ đứng thứ 70/141 quốc gia, đứng thứ 4/6 trong ASEAN về mức độ sẵn sàng cho số hóa.
*6 Do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì theo Quyết định số 1726/QĐ-BTTTT ngày 12/10/2020.
*7 Dựa trên các ứng dụng, nền tảng số, một bộ phận của kinh tế chia sẻ, kinh tế gắn kết linh hoạt (có thể đo lường được) trong 5 lĩnh vực: thương mại điện tử, dịch vụ gọi xe và giao đồ ăn trực tuyến, dịch vụ truyền thông trực tuyến, dịch vụ du lịch trực tuyến, dịch vụ tài chính số (thanh toán, kiều hối, cho vay, bảo hiểm, đầu tư…).