Giải pháp phát triển thị trường vui chơi có thưởng ở Việt Nam

Giải pháp phát triển thị trường vui chơi có thưởng ở Việt Nam 04/01/2022 13:56:00 1531

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Giải pháp phát triển thị trường vui chơi có thưởng ở Việt Nam

04/01/2022 13:56:00

Phạm Thanh Sơn, Nguyễn Anh Tùng

Vụ Tài chính các ngân hàng và Tổ chức tài chính, Bộ Tài chính

 

Kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng (gồm xổ số, đặt cược, casino và trò chơi điện tử có thưởng) là ngành, nghề kinh doanh đặc thù, có tác động về mặt xã hội. Do đó, chính sách của mỗi quốc gia đối với hoạt động kinh doanh này sẽ khác nhau từ quan điểm đến xây dựng khuôn khổ pháp lý, mô hình quản lý nhà nước, điều kiện đầu tư kinh doanh, tổ chức thị trường, sản phẩm và phương thức phân phối sản phẩm...

Tại Việt Nam, khuôn khổ pháp lý về kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên cả ba phương diện: thể chế chính sách; quản lý và giám sát thị trường; xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai vẫn còn tồn tại một số bất cập như: quy định về điều kiện cấp phép, phương thức phân phối sản phẩm, phân phối vé gắn với định danh người chơi qua internet; loại hình vui chơi có thưởng bất hợp pháp như cờ bạc, lô đề, cá độ bóng đá... có xu hướng tăng, đặc biệt trong bối cảnh ứng dụng internet và các phương thức thanh toán ngày càng đa dạng và phát triển. Do vậy, bài viết tập trung phân tích, đánh giá thực trạng phát triển thị trường vui chơi có thưởng ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường vui chơi có thưởng tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường này, từng bước ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ các hoạt động vui chơi có thưởng bất hợp pháp, góp phần đẩy lùi tệ nạn, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.

Từ khóa: Vui chơi có thưởng, hoạt động vui chơi có thưởng, thị trường vui chơi có thưởng.

Business in the prize-winning gaming sector (including casino, betting, prize-winning electronic games for foreigners and lottery) is a specific business line with social impacts. Therefore, each country's policy for this business will be different about legal framework, state management model, business investment conditions, market organization...

In Vietnam, the legal framework for business in the prize-winning gaming sector has been gradually improved, creating a legal corridor and enhancing the effectiveness and efficiency of state management in all three aspects: institutional policy; market management and supervision; handling administrative violations. However, in the implementation, there are still some shortcomings such as: regulations on licensing conditions, the method of product and ticket distribution associated with player identifiers over the internet; the increase of illegal types such as gambling, lotto, football betting..., especially in the context of internet applications and payment methods being increasingly diversified and developed. Therefore, the article focuses on analyzing and assessing the current situation of the prize-winning gaming sector in Vietnam, thereby offering synchronous solutions to develop Vietnam’s prize-winning gaming sector, improving the efficiency of state management, as well as preventing and eliminating illegal entertainment activities, contributing to ensuring security, social order and safety.

Keywords: Prize - wining gaming sector, prize - wining gaming activities, prize - wining gaming market.

1. Một số vấn đề chung về vui chơi có thưởng

Theo một số nghiên cứu, các hoạt động vui chơi có thưởng xuất hiện trên thế giới dưới hình thức sơ khai nhất là chơi xúc sắc với lịch sử hơn 4.000 năm tuổi tại Ai Cập và trò chơi Keno của người Trung Quốc có lịch sử gần 2.500 năm. Tại thời điểm đó, yếu tố may rủi trong các trò chơi giải trí tồn tại như một phần tất yếu trong nhu cầu cuộc sống, có sức hấp dẫn, kích thích con người tham gia các trò chơi may rủi. Tuy nhiên, các hoạt động này mới chỉ tổ chức một cách tự phát, nhỏ lẻ, chưa có khuôn khổ pháp lý và sự quản lý của Nhà nước. Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, trước những tác động tiêu cực của các trò chơi may rủi đến trật tự an ninh xã hội, Chính phủ các nước bắt đầu xây dựng khuôn khổ pháp lý để quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh này cho phù hợp với đặc điểm và năng lực quản lý của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của thị trường.

Cho đến nay chưa có một định nghĩa chung về vui chơi có thưởng, tuy nhiên định nghĩa về vui chơi có thưởng đều có chung các đặc điểm là những hình thức vui chơi giải trí mà người tham gia có thể kỳ vọng vào yếu tố may mắn hoặc sự kết hợp giữa may mắn với kỹ năng trong việc tìm kiếm những kết quả có lợi cho mình. Để tham gia, người chơi phải bỏ ra một khoản tiền (hoặc tài sản) nhất định và sẽ được doanh nghiệp trả thưởng nếu xác định là người trúng thưởng. Người thường xuyên tham gia các trò chơi có thưởng đam mê, có thể dẫn tới những hành vi vi phạm quy tắc đạo đức và phạm tội. Do vậy, mỗi quốc gia sẽ có đánh giá về tác động của các loại trò chơi có thưởng đối với kinh tế xã hội của đất nước ở các mức độ khác nhau mà cho phép kinh doanh và quản lý hoạt động này ở mức độ khác nhau (về loại hình, phạm vi không gian, thời gian, đối tượng). Thực tiễn có thể thấy, thị trường vui chơi có thưởng chỉ hình thành và phát triển khi các mối quan hệ và các lợi ích giữa người chơi, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước được giải quyết một cách hài hòa và có hiệu quả.

1.1. Người chơi các hoạt động vui chơi có thưởng

Mỗi người đều có niềm đam mê, yêu thích một hoặc toàn bộ các loại hình vui chơi có thưởng. Tuy nhiên, để tham gia các loại hình vui chơi có thưởng, người chơi không chỉ đặt niềm tin, cảm xúc của mình vào sự may mắn và sự tính toán về xác suất hay khả năng trúng thưởng đối với mỗi loại hình vui chơi có thưởng mà còn đặt sự tin tưởng của mình đối với doanh nghiệp. Theo đó, người chơi kỳ vọng doanh nghiệp có thể cung cấp cho người chơi các sản phẩm vui chơi có thưởng phong phú, đa dạng, có giải thưởng hấp dẫn và việc thanh toán khi trúng thưởng được thuận tiện, nhanh chóng và bảo mật thông tin.

Đối với cơ quan quản lý nhà nước, người chơi mong muốn các doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng phải là những doanh nghiệp có uy tín, kinh nghiệm, cũng như tiềm lực về tài chính và tuân thủ mọi quy định của pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, các quyền và lợi ích hợp pháp của người chơi được pháp luật bảo vệ khi tham gia các trò chơi có thưởng.

1.2. Doanh nghiệp kinh doanh hoạt động vui chơi có thưởng

Doanh nghiệp kinh doanh hoạt động vui chơi có thưởng mong muốn cơ quan quản lý nhà nước xây dựng chính sách về kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng nhất quán, công bằng, minh bạch, ít thay đổi trong thời gian đầu tư, kinh doanh; chính sách thuế quy định ở mức phù hợp để có thể kinh doanh có lãi, thu hồi vốn đầu tư đúng kỳ vọng; các quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, để có thể tồn tại và cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác cũng như các tổ chức kinh doanh bất hợp pháp, doanh nghiệp kinh doanh hoạt động vui chơi có thưởng phải liên tục nghiên cứu, đổi mới sản phẩm đa dạng phù hợp nhu cầu và thị hiếu của người chơi; đổi mới phân phối sản phẩm vui chơi có thưởng qua internet và ứng dụng internet trên điện thoại; đổi mới phương thức thanh toán qua trung gian thanh toán không dùng tiền mặt nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của người chơi.

1.3. Cơ quan quản lý nhà nước

Trong bối cảnh khoa học công nghệ và internet phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các nước đã thay đổi quan điểm từ nghiêm cấm kinh doanh vui chơi có thưởng chuyển sang cho phép kinh doanh loại hình này ở mức độ giới hạn (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…) hoặc “mở cửa” hoàn toàn thị trường này (Hoa Kỳ, Anh, Macao…). Việc hợp pháp hóa hoạt động kinh doanh vui chơi có thưởng, cơ quan quản lý nhà nước kỳ vọng: (i) Đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí cho một bộ phận chính đáng của người dân và đa dạng sản phẩm dịch vụ cung cấp trên thị trường (bao gồm các sản phẩm bổ trợ đi kèm trong như khách sạn, du lịch, tiêu dùng...). Nhằm thoả mãn nhu cầu của du khách và gia tăng vị thế cạnh tranh trên thị trường, một số quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Úc, Singapore, Macao… đã hình thành và phát triển ngành công nghiệp vui chơi có thưởng gắn dịch vụ vui chơi giải trí với nhiều hoạt động khác nhau như khách sạn, nhà hàng, mua sắm, các công viên chuyên đề, trung tâm văn hóa… qua đó người chơi/người tiêu dùng có nhiều lựa chọn sản phẩm dịch vụ và cơ hội để tối đa hóa độ thỏa dụng với cùng một mức ngân sách nhất định; (ii) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại địa phương, phát triển thương mại, du lịch và tăng nguồn thu cho NSNN thông qua việc thu hút được nhà đầu tư vào tổ hợp các khu dịch vụ và du lịch, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng tổng hợp. Đồng thời, góp phần thúc đẩy các ngành, nghề kinh doanh bổ trợ (khách sạn, ăn uống, thanh toán, ngoại hối, sự kiện truyền thông...). Việc xây dựng khu vui chơi có thưởng (casino, đặt cược) thường mang lại các dự án đầu tư xây dựng có trị giá hàng tỷ USD 1 để xây dựng những khu nghỉ dưỡng vui chơi có thưởng tích hợp giữa sản phẩm vui chơi có thưởng với khách sạn, nhà hàng, trung tâm mua sắm, trung tâm hội nghị, rạp chiếu phim... Theo nghiên cứu của Andersen (2016)2 ước tính, tổng chi tiêu hằng năm về xây dựng và mua sắm tài sản, đồ nội thất và trang thiết bị, bao gồm nâng cấp và xây dựng lại cho các hoạt động vui chơi có thưởng là khoảng 4,27 tỷ USD trong giai đoạn 2013 - 2015; (iii) Đảm bảo tính công bằng, minh bạch giữa doanh nghiệp và người chơi, qua đó góp phần ngăn chặn, hạn chế tiến tới xóa bỏ các tệ nạn xã hội phát sinh từ hoạt động cờ bạc, lô đề, cá độ bất hợp pháp.

2. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý thị trường vui chơi có thưởng

Hiện nay, trên thế giới có khoảng 135 quốc gia và vùng lãnh thổ đã cho phép kinh doanh hoạt động vui chơi có thưởng. Tùy theo chính sách và khả năng quản lý, cách thức quản lý và tổ chức thị trường vui chơi có thưởng có sự khác biệt giữa các quốc gia. Tuy nhiên, phần lớn chính phủ các nước đều xây dựng và ban hành hệ thống khuôn khổ pháp lý (thường là Luật Quản lý chuyên ngành) nhằm quy định cụ thể mô hình quản lý nhà nước; tổ chức thị trường (trong đó quy định cụ thể về điều kiện cấp phép và số lượng doanh nghiệp được kinh doanh, các hình thức và sản phẩm được phép kinh doanh, điều kiện đối với người chơi…) nhằm quản lý, giám sát chặt chẽ và định hướng phát triển thị trường qua từng thời kỳ, hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội.

2.1. Mô hình quản lý nhà nước

Do kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng dựa trên nguyên lý may rủi và gắn liền với việc tạo nguồn thu để thực hiện các mục tiêu phúc lợi xã hội công cộng nên hầu hết các nước đều thành lập một cơ quan chuyên trách quản lý hoạt động kinh doanh này. Cơ quan này có thể thuộc chính phủ để quản lý tập trung trên phạm vi cả nước (Anh, Hàn Quốc, Malaysia) hoặc quản lý phân tán theo từng thị trường (mỗi bang xây dựng chính sách riêng và thành lập một bộ phận quản lý, giám sát hoạt động vui chơi có thưởng riêng như Hoa Kỳ, Australia…) hoặc có thể do các hiệp hội, ủy ban giám sát độc lập với chính phủ quản lý (Macao, Singapore). Mỗi mô hình quản lý nhà nước đều có ưu, nhược điểm riêng, tuy nhiên dù được tổ chức theo mô hình nào thì mô hình quản lý nhà nước về thị trường vui chơi có thưởng đều quán triệt các nguyên tắc: (i) Trung ương thống nhất ban hành các chính sách quản lý; xây dựng quy hoạch, định hướng phát triển thị trường trong từng thời kỳ đảm bảo đồng bộ về khuôn khổ pháp lý, khả năng quản lý để đảm bảo hoạt động kinh doanh công khai, minh bạch và thống nhất theo mục tiêu, định hướng phát triển và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật; ban hành quy trình nghiệp vụ; điều kiện cấp thu, hồi giấy phép kinh doanh (nhằm hạn chế số lượng doanh nghiệp trên thị trường); kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp, có sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong quá trình kiểm tra, giám sát để đảm bảo trật tự an toàn xã hội; (ii) Đảm bảo sự độc lập trong quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vui chơi có thưởng; (iii) Đảm bảo người chơi không ham mê quá mức và vui chơi có trách nhiệm với xã hội, cộng đồng.

2.2. Tổ chức thị trường

Số lượng doanh nghiệp

Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng có tác động tiêu cực đến an ninh, trật tự xã hội nên pháp luật các nước quy định cụ thể (tại Luật Quản lý chuyên ngành) về điều kiện cấp phép kinh doanh hoặc quy định cụ thể số lượng doanh nghiệp được phép kinh doanh trong từng thời kỳ đảm bảo phù hợp với định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Một số nước cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước được cấp phép kinh doanh (Trung Quốc chỉ có 1 doanh nghiệp nhà nước được phép kinh doanh đặt cược và xổ số...); cho phép các thành phần kinh tế khác tham gia kinh doanh ngành vui chơi có thưởng nhưng khống chế số lượng các doanh nghiệp bằng quy các điều kiện về năng lực tài chính, hệ thống kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và phí cấp phép phải nộp (ngoài nghĩa vụ phải nộp thuế theo quy định của pháp luật). Bên cạnh đó, các nước còn giới hạn loại hình vui chơi có thưởng được phép kinh doanh (Singapore có 1 doanh nghiệp vừa kinh doanh xổ số vừa kinh doanh đặt cược thể thao và chỉ cho phép 2 doanh nghiệp được phép kinh doanh casino; Malaysia có 1 doanh nghiệp kinh doanh đặt cược đua ngựa; Hồng Kông có 1 doanh nghiệp kinh doanh xổ số, đặt cược bóng đá và đua ngựa…).

Phạm vi hoạt động kinh doanh

Đối với các loại hình sản phẩm được phép kinh doanh, tùy vào đặc điểm và điều kiện phát triển, quản lý thị trường của từng nước, mỗi quốc gia chỉ cho phép kinh doanh một hoặc một số hoặc toàn bộ loại hình vui chơi có thưởng (xổ số, đặt cược hoặc casino và trò chơi có thưởng). Trong mỗi loại hình vui chơi có thưởng, các nước cũng chọn một hoặc một số loại hình sản phẩm vui chơi giải trí được yêu thích để cho phép kinh doanh (Trung Quốc cho phép đặt cược đối với bóng đá và bóng rổ; Singapore, Hồng Kông cho phép đặt cược đối với bóng đá và đua ngựa; Đài Loan cho phép đặt cược đối với bóng chày…). Một số nước giới hạn số lượng sản phẩm vui chơi có thưởng được phép kinh doanh trong từng thời kỳ. Trong khi đó, một số nước lại “mở cửa” đối với hoạt động kinh doanh vui chơi có thưởng như Anh , Hàn Quốc cho phép kinh doanh rất nhiều loại hình đặt cược thể thao (bóng đá, bóng chày, bóng chuyền, bóng rổ, đua xe công thức 1, đua ngựa…).

Do sự phát triển về công nghệ internet và phương thức thanh toán qua hệ thống ngân hàng, trung gian thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển mạnh mẽ nên một số nước như Hoa Kỳ, Anh, Hà Lan, Italy... cho phép kinh doanh trực tuyến qua internet một phần hoặc toàn bộ sản phẩm vui chơi có thưởng. Tuy nhiên, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… không cho phép kinh doanh trực tuyến các sản phẩm vui chơi có thưởng.

Kiểm soát và giới hạn đối tượng tham gia

Các nước quy định người chơi phải từ 18 tuổi trở lên mới được tham gia các loại hình vui chơi có thưởng. Đặc biệt, một số quốc gia quy định người tham gia các sản phẩm vui chơi có thưởng qua điện thoại hoặc internet phải từ 21 tuổi trở lên và tài khoản người chơi đăng ký tại doanh nghiệp kinh doanh vui chơi có thưởng phải được kết nối với tài khoản người chơi mở tại ngân hàng.

Đối với giới hạn đối tượng tham gia, một số quốc gia không cho phép người có quan hệ họ hàng với các nhân viên, người quản lý trong casino hoặc những người có thu nhập thấp (đặc biệt là người đang trong tình trạng thất nghiệp) không được chơi trò chơi cờ bạc. Người chơi chỉ được chơi các loại hình vui chơi có thưởng khi xuất trình giấy tờ tùy thân, mỗi người chơi phải có một tài khoản cá nhân, trong đó ghi nhận tất cả các trận thắng và thua. Ngoài ra, doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng không được cho người chơi vay tiền để tham gia chơi các loại hình vui chơi có thưởng nhằm đảm bảo sự cân đối giữa lợi ích kinh tế và đảm bảo trật tự xã hội.

2.3. Một số bài học từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước cho thấy, để quản lý hoạt động kinh doanh ngành vui chơi có thưởng có hiệu quả, điều kiện tiên quyết là phải xây dựng hệ thống pháp lý rõ ràng, đủ mạnh để quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này; đồng thời, xây dựng mô hình quản lý, giám sát tập trung vào một đầu mối (từ xây dựng chính sách cho đến hướng dẫn tổ chức thực hiện, từ cấp phép cho đến quản lý giấy phép, kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện và quản lý, điều hành thị trường theo đúng quy định pháp luật…).

(i) Việc tham gia các loại hình vui chơi có thưởng là một nhu cầu thực tế và luôn tồn tại trong một bộ phận người dân. Vì vậy, Nhà nước nên cho phép kinh doanh trên cơ sở phải có một hệ thống chính sách quản lý chặt chẽ nhằm định hướng mức độ tham gia của người dân trong nước, hạn chế mức tối đa các ảnh hưởng của ngành, nghề kinh doanh này đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời khai thác, thu hút được người chơi là người nước ngoài.

(ii) Luật là hình thức văn bản pháp lý cao nhất và phổ biến trên thế giới để điều chỉnh cách thức tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng. Hiện nay tại Việt Nam, kinh doanh trong lĩnh vực vực vui chơi có thưởng là một loại hình kinh doanh mới chỉ được quy định dưới hình thức văn bản pháp lý là nghị định của Chính phủ. Do vậy, Việt Nam cần sớm đánh giá toàn diện về thị trường vui chơi có thưởng; tồn tại, hạn chế trong tổ chức thị trường; cuộc cách mạng khoa học, công nghệ thời gian gần đây và ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển sản phẩm và phân phối sản phẩm phù hợp nhu cầu của người chơi... để nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền ban hành Luật Vui chơi có thưởng. Những văn bản luật này sẽ góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về điều kiện đầu tư kinh doanh nhằm đảm bảo chỉ cấp phép cho những doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính; hoàn thiện về tổ chức thị trường theo hướng sắp xếp, tổ chức lại thị trường nhằm đảm bảo chỉ những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý và hoạt động hiệu quả được phép tiếp tục kinh doanh; tăng cường quản lý, giám sát gắn với định danh người chơi và ứng dụng khoa học công nghệ trong phân phối sản phẩm, hướng tới quản lý, điều hành thị trường hiệu quả, minh bạch; từng bước đẩy lùi hoạt động kinh doanh bất hợp pháp và tạo nguồn thu cho NSNN.

(iii) Hầu hết các quốc gia đều có một bộ phận chuyên trách quản lý hoạt động kinh doanh lĩnh vực vui chơi có thưởng, qua đó đảm bảo quản lý nhà nước thống nhất và tập trung vào một đầu mối, từ xây dựng để trình cấp có thẩm quyền ban hành hệ thống pháp lý, định hướng, quy hoạch phát thị trường theo chủ trương phát triển của quốc gia trong từng thời kỳ, đặc biệt là các quy định về quản lý nghiệp vụ để đảm bảo kiểm soát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực vui thưởng có thưởng. Bên cạnh đó, một bộ phận chuyên quản lý, giảm sát cũng sẽ góp phần ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vui chơi có thưởng nhằm quản lý, điều hành thị trường đi đúng mục tiêu, định hướng của Chính phủ.

3. Thực trạng thị trường vui chơi có thưởng tại Việt Nam

3.1. Một số kết quả đạt được

Hệ thống khuôn khổ pháp lý được ban hành đồng bộ

Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định3, trong đó quy định cụ thể các điều kiện đầu tư, kinh doanh đối với từng lĩnh vực nhằm đảm bảo nguyên tắc là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, không khuyến khích phát triển, chịu sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, quy trình cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh được quy định cụ thể nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình cấp phép và thể hiện rõ quan điểm của Chính phủ là chỉ cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho những doanh nghiệp quy mô lớn, có tiềm lực tài chính. Đồng thời, thị trường xổ số và trò chơi có thưởng đã từng bước được hiện đại hóa theo hướng công khai, minh bạch, trung thực theo chuẩn mực của thế giới và từng bước giảm tình trạng lô, đề, cá độ bất hợp pháp.

Sự phát triển của thị trường đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí chính đáng của một bộ phận người dân và đóng góp nguồn thu lớn cho NSNN.

Thị trường vui chơi có thưởng có sự phát triển về quy mô và số lượng doanh nghiệp, đạt 64 doanh nghiệp kinh doanh xổ số, 57 doanh nghiệp kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng, 9 doanh nghiệp kinh doanh casino và 1 doanh nghiệp kinh doanh đặt cược đua chó trong năm 2020, qua đó đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí lành mạnh của một bộ phận người chơi, từng bước hiện đại hóa thị trường theo hướng công khai, minh bạch và đóng góp lớn cho NSNN.

Trong bối cảnh Việt Nam gặp nhiều khó khăn do tác động của dịch Covid-19 trong năm 2020, thị trường vui chơi có thưởng cũng đã đạt được những kết quả nhất định và có đóng góp hơn 39.273 tỷ đồng vào tổng thu NSNN (chiếm khoảng 3,55% thu nội địa). Trong đó, lĩnh vực xổ số đóng góp 36.709 tỷ đồng (bằng 115,92% dự toán NSNN được giao), góp phần thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch Covid-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Doanh thu xổ số thủ công của 63 công ty xổ số kiến thiết chiếm 95,35% doanh thu toàn thị trường xổ số, trong đó: (i) Xổ số truyền thống chiếm tỷ trọng lớn (92,18% doanh thu thị trường xổ số); (ii) Xổ số lô tô thủ công và xổ số biết kết quả ngay (chiếm 2,40% và 0,77%). Xổ số điện toán (loại hình xổ số đươc đưa vào kinh doanh nhằm từng bước tái cơ cấu thị trường xổ số theo hướng hiện đại, minh bạch và hiệu quả) vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trên thị trường (4,65%).

Bảng 1: Doanh thu và số nộp NSNN các doanh nghiệp vui chơi có thưởng

Đơn vị: Triệu đồng

 

Lĩnh vực

Số lượng doanh nghiệp

Doanh thu

Nộp NSNN

Năm 2010

Năm 2020

TH 2010

TH 2020

TH 2020/ TH 2010 (%)

TH 2010

TH 2020

TH 2020/ TH 2010 (%)

Xổ số

63

64

41.861.692

110.547.411

264,08%

11.536.211

36.708.889

318,21%

Trò chơi điện tử có thưởng

23

57

926.459

4.731.151

510,67%

418.259

1.487.746

355,70%

Casino

6

9

601.930

2.400.743

398,84%

145.269

1.075.596

740,42%

Đặt cược

2

1

193.592

9.990

5,16%

23.533

992

4,22%

Tổng cộng

   

43.583.673

117.689.295

270,03%

12.123.272

39.273.223

323,95%

Nguồn: Tổng hợp báo cáo tài chính của doanh nghiệp xổ số và trò chơi có thưởng.

Ngoài ra, các loại hình sản phẩm từng bước được đa dạng, phương thức phân phối phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người chơi. Kể từ năm 2016, việc đưa vào kinh doanh các sản phẩm xổ số điện toán (XSĐT) của Vietlott và phương thức phân phối vé xổ số qua điện thoại đã góp phần đa dạng hóa các sản phẩm xổ số, từng bước hiện đại hóa thị trường xổ số theo hướng công khai, minh bạch, trung thực và từng bước giảm tình trạng lô, đề bất hợp pháp.

3.2. Một số tồn tại, hạn chế

Đối với thị trường xổ số

Mặc dù số lượng doanh nghiệp nhiều (64 công ty) nhưng nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, đặc biệt là một số công ty xổ số kiến thiết khu vực miền Bắc và miền Trung. Qua đó, làm ảnh hưởng lớn đến công tác xây dựng chính sách áp dụng cho toàn thị trường và công tác điều hành, quản lý điều hành thị trường xổ số của cơ quan quản lý nhà nước.

Sản phẩm xổ số thủ công vẫn chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong cơ cấu doanh thu thị trường xổ số (95,35%), do đó các tồn tại, hạn chế trong hoạt động kinh doanh xổ số chưa được giải quyết như: (i) Chi phí phát hành của các công ty xổ số kiến thiết cao, công nghệ in vé lạc hậu, dễ phát sinh tiêu cực, gian lận nếu không quản lý chặt chẽ. Một số công ty xổ số kiến thiết quản lý tài chính lỏng lẻo, có sai phạm trong hoạt động kinh doanh xổ số đã bị cơ quan công an điều tra và xử lý theo quy định của pháp luật; (ii) Tại khu vực miền Bắc, xổ số lô tô thủ công ngày càng phát triển (chiếm 86,6% doanh thu toàn khu vực và có xu hướng ngày càng tăng); trong khi đó các hoạt động lô, đề, cờ bạc bất hợp pháp ngày càng ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của các công ty xổ số. Một số đại lý bán vé xổ số còn tổ chức bán cả lô, đề, nếu không có giải pháp mạnh mẽ sẽ tác động xấu và ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.

Đối với thị trường đặt cược, casino và trò chơi điện tử có thưởng

Công tác quản lý nhà nước bị phân tán trong thời gian dài trước trước khi các nghị định chuyên ngành được ban hành, do vậy đến nay nhiều dự án kinh doanh quy mô nhỏ vẫn tồn tại. Một số doanh nghiệp chỉ tập trung vào khai thác đối tượng khách du lịch nước ngoài mà không xây dựng chiến lược kinh doanh nhằm đa dạng hóa các đối tượng người chơi (đặc biệt là đối tượng khách chuyên gia là người nước ngoài) nên hiệu quả kinh doanh chưa cao.

Hoạt động kinh doanh giữa các khu vực phát triển không đồng đều. Theo đó, số nộp NSNN từ kinh doanh casino và trò chơi có thưởng chủ yếu tập trung tại khu vực miền Nam 67,28% (đối với trò chơi điện tử có thưởng) và 75,7% (đối với casino). Thị trường trò chơi điện tử có thưởng tại khu vực miền Trung và thị trường casino tại khu vực miền Bắc hoạt động không thực sự hiệu quả dù số lượng doanh nghiệp nhiều.

Doanh nghiệp chỉ được phép kinh doanh tại các địa điểm kinh doanh cố định, không được phép kinh doanh qua internet nên hiệu quả kinh doanh chưa cao, khó có thể làm giảm hoạt động cờ bạc, lô đề, cá độ bóng đá bất hợp pháp.

Hoạt động thí điểm kinh doanh đặt cược bóng đá quốc tế chưa triển khai được sau 4 năm ban hành Nghị định số 06/2017/NĐ-CP do vướng mắc về cơ chế đấu thầu và danh mục trận đấu, giải thi đấu bóng đá quốc tế. Do đó, quy định tại Nghị định số 06/2017/NĐ-CP cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư năm 2020 và hạn chế các bất cập trong thực tiễn triển khai thực hiện.

4. Giải pháp phát triển thị trường vui chơi có thưởng tại Việt Nam

Việt Nam cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và cơ chế quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động này trước thực trạng nhu cầu của một bộ phận người dân ngày càng tăng cao. Trong đó, thị trường vui chơi có thưởng chỉ được phép phát triển và mở rộng theo đúng định hướng quản lý của Nhà nước, đáp ứng những yêu cầu, điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật và phải có cơ chế tuân thủ theo nguyên tắc chơi có trách nhiệm. Kinh nghiệm quốc tế và thực tế tại Việt Nam cho thấy sự cần thiết phải ban hành khuôn khổ pháp lý đủ mạnh (Luật chuyên ngành về trò chơi có thưởng), trong đó quy định rõ điều kiện tổ chức kinh doanh theo hướng chỉ cấp giấy phép cho các doanh nghiệp có năng lực tài chính và phải gắn với việc thúc đẩy phát triển về du lịch, thương mại. Các loại hình sản phẩm, phương thức phân phối sản phẩm vui chơi có thưởng được phép kinh doanh. Các quy định về quản lý, giám sát người chơi và trách nhiệm của các cơ quan liên quan nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động kinh doanh này đối với xã hội.

  Hiện nay, mô hình quản lý, giám sát và kiểm tra thị trường vui chơi có thưởng là đơn vị cấp phòng thuộc Bộ Tài chính đang bộc lộ một số tồn tại, hạn chế (khó có thể giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề phát sinh trong thực tế; không có tư cách pháp nhân để trực tiếp xử lý vi phạm của doanh nghiệp trong kinh doanh...). Kinh nghiệm của các nước cho thấy, việc thành lập cơ quan chuyên trách nhằm quản lý thị trường vui chơi có thưởng là cần thiết và là yếu tố quan trọng trong quản lý và phát triển đúng hướng các loại hình kinh doanh này. Cơ quan này cần có vị trí phù hợp nhằm đảm bảo đưa ra quyết định hiệu quả, nhanh chóng; tham mưu cho các cấp có thẩm quyền trong định hướng, phát triển hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi có thưởng; đồng thời giữ vai trò là đầu mối với các cơ quan quản lý nhà nước và thực thi pháp luật trong việc quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh của ngành này để giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề phát sinh trong thực tế cũng như đảm bảo phát huy các tác động tích cực, giảm thiểu tác động tiêu cực trong quá trình phát triển thị trường vui chơi có thưởng.

Việt Nam nên xem xét việc thí điểm cho phép kinh doanh đặt cược bóng đá quốc tế và thí điểm đối tượng là người Việt Nam vào chơi casino, qua đó thu hút đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển về du lịch, thương mại, đáp ứng nhu cầu giải trí của người dân. Sau quá trình thí điểm, Chính phủ sẽ tổng kết, đánh giá toàn diện trên các phương diện về kinh tế - xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội … để quyết định việc tiếp tục cho phép mở rộng hoạt động kinh doanh đặt cược thể thao, phương thức phân phối vé đặt cược, mở rộng các địa điểm được phép cho người Việt Nam chơi casino hoặc có thể chấm dứt thí điểm đối với các loại hình kinh doanh nêu trên.

Thị trường vui chơi có thưởng cần được tổ chức lại theo hướng thu gọn dần các đầu mối kinh doanh theo hướng giải thể, không gia hạn giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp bị thua lỗ nhiều năm liên tiếp. Đồng thời, loại hình sản phẩm, phương thức phân phối sản phẩm cần được từng bước hiện đại hóa theo hướng áp dụng khoa học công nghệ nhằm giảm thiểu chi phí, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường công tác quản lý, giám sát thị trường vui chơi có thưởng theo định danh người chơi (thông qua tài khoản người chơi đăng ký tại doanh nghiệp, qua tài khoản thanh toán của người chơi mở tại tổ chức tín dụng hoặc tài khoản ví điện tử tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt).

Chương trình vui chơi có trách nhiệm cần được xây dựng và thực thi với những giải pháp giúp người chơi kiểm soát được mức độ và sự đam mê thái quá thông qua các cảnh bảo về thời gian, số tiền chơi; các giải pháp tự kiểm soát như quy định về việc tự nguyện từ chối chơi hoặc không được phép chơi nếu thành viên trong gia đình có ý kiến... Ngoài ra, Chính phủ nên cân nhắc sử dụng một phần nguồn thu từ hoạt động kinh doanh vui chơi có thưởng để chi cho các chương trình chơi có trách nhiệm, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến xã hội như: thành lập quỹ giúp những người nghiện cờ bạc cai nghiện, hỗ trợ việc làm cho người sau cai nghiện cờ bạc; thành lập các trung tâm tư vấn hỗ trợ cai nghiện cờ bạc... Bên cạnh đó, công tác thông tin tuyên truyền cần tích cực đẩy mạnh để giáo dục nhận thức kiểm soát hành vi của người tham gia các loại hình vui chơi có thưởng.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Anh Tùng (2018), Giải pháp tăng cường quản lý, giám sát phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố trong hoạt động vui chơi có thưởng tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

2. Báo cáo tài chính kiểm toán các doanh nghiệp vui chơi có thưởng.

3. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam (2015), Báo cáo tóm tắt về nghiên cứu ngành vui chơi có thưởng tại Việt Nam.

Tiếng Anh

4. Andersen, A. (2016), Economic Impacts of Casino Gaming in the United States”.

5. EGBA (2014), Sporting Betting: Commercial and Integrity Issues”.

6. Europeane Scientific Journal (2013), The regulated Internet Gambling Industry in Italy: Business Models Compared.

7. Fabian Enrique (2001), Statistical Methodology of Profitable Sport Gambling”, Simon Fraser University.

8. KPMG (2010), Online Gambling, A Gamble or sure bet?.

 

Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam số 5/2021

*1 Macao có một số khu phức hợp nhiều tỷ USD trong khu Cotai Strip. Singapore cũng đầu tư xây dựng hai khu nghỉ mát tích hợp lớn trên vịnh Marina và đảo Sentosa với tổng giá trị đầu tư khoảng 9 tỷ USD. Hàn Quốc cũng đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng phức hợp trên đảo Jeju với tổng vốn đầu tư 3,6 tỷ USD.

*2 Andersen, A. (2016), Economic impacts of casino gaming in the United States.

*3 Nghị định số 30/2007/NĐ-CP ngày 01/3/2007 và Nghị định số 78/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 30/2007/NĐ-CP ngày 01/3/2007 của Chính phủ về kinh doanh xổ số; Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 và Nghị định số 175/2016/NĐ-CP ngày 30/12/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài; Nghị định số 03/2017/NĐ-CP ngày 16/01/2017 của Chính phủ về kinh doanh casino; Nghị định số 06/2017/NĐ-CP ngày 24/01/2017 của Chính phủ về kinh doanh đặt cược đua ngựa, đua chó và bóng đá quốc tế; Nghị định số 151/2018/NĐ-CP ngày 07/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%