Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có vai trò quan trọng đối với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, hỗ trợ cho tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/11/2021, tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm vào Việt Nam đạt hơn 8 tỷ USD, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2020, giúp bổ sung vốn, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, tổ chức và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của Việt Nam.
Nhiều dự án tăng vốn đầu tư
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/11/2021, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt gần 14,1 tỷ USD, tăng 3,76% so với cùng kỳ. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 14 tỷ USD, chiếm 53% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành sản xuất, phân phối điện mặc dù thu hút được số lượng dự án mới, điều chỉnh, cũng như góp vốn mua cổ phần không nhiều; song với quy mô dự án lớn nên vẫn đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư trên 5,7 tỷ USD, chiếm 21,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là các ngành kinh doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đăng ký lần lượt đạt 2,41 tỷ USD và 1,27 tỷ USD.
Nếu xét về số lượng dự án mới thì công nghiệp chế biến, chế tạo; bán buôn bán lẻ; hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ là các ngành thu hút được nhiều dự án nhất, chiếm lần lượt 30,5%, 28,1% và 16,5% tổng số dự án.
Trong 11 tháng đầu năm 2021, có 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam; trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư hơn 7,6 tỷ USD, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 5,9% so với cùng kỳ 2020. Hàn Quốc đứng thứ hai với 4,36 tỷ USD, chiếm 16,5% tổng vốn đầu tư, tăng 17,6% so với cùng kỳ. Nhật Bản đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,7 tỷ USD, chiếm gần 14% tổng vốn đầu tư và tăng 54% so với cùng kỳ. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc)…
Hiện vốn đầu tư của Singapore gấp 1,74 lần vốn đầu tư của Hàn Quốc và gấp 2,1 lần vốn đầu tư của Nhật Bản do Singapore có dự án lớn 3,1 tỷ USD. Riêng dự án này đã chiếm tới 41% tổng vốn đầu tư của Singapore. Hàn Quốc mặc dù chỉ xếp thứ hai về vốn đầu tư, song lại là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới, số lượt dự án điều chỉnh vốn cũng như số lượt góp vốn mua cổ phần. Như vậy, nếu xét về số lượng dự án, Hàn Quốc là đối tác có nhiều nhà đầu tư quan tâm và đưa ra các quyết định đầu tư mới cũng như mở rộng dự án đầu tư nhất trong 11 tháng đầu năm 2021.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 58 tỉnh, thành phố trên cả nước. Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,76 tỷ USD, chiếm 14,2% tổng vốn đầu tư đăng ký; trong đó có dự án điện lớn có số vốn đầu tư lên tới 3,1 tỷ USD, chiếm 82,4% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh. Thành phố Hồ Chí Minh đứng vị trí thứ hai với gần 3,43 tỷ USD, chiếm gần 13% tổng vốn đầu tư. Hải Phòng đứng thứ ba với tổng vốn đăng ký trên 2,8 tỷ USD, chiếm 10,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Quảng Ninh, Bình Dương, Cần Thơ…
Phân tích nguyên nhân vốn FDI đăng ký tăng thêm tăng mạnh, theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) là do trong 11 tháng qua, nhiều dự án FDI đã tăng vốn đầu tư, điển hình là dự án LG Display (Hàn Quốc) điều chỉnh tăng vốn đầu tư 2 lần vào tháng 2 và tháng 8 với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 2,15 tỷ USD; Dự án Nhà máy Công ty trách nhiệm hữu hạn Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan - Trung Quốc) điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD…
Xây dựng lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI
Dịch Covid-19 đã gây ra các hệ lụy sâu sắc về kinh tế, xã hội, chính trị trên quy mô toàn cầu. Theo đó, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển coi trọng việc tự do hóa chế độ quản lý đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây, với 63% các quy định ban hành mới giúp các công ty nước ngoài đầu tư dễ dàng hơn và chỉ có 14% các quy định mới gây khó khăn hơn. Theo báo cáo của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), FDI năm 2022 được dự báo tăng cao hơn và có thể trở lại mức của năm 2019 là 1.500 tỷ USD do các quốc gia đẩy mạnh đầu tư để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi bền vững và toàn diện. Với nhiều lợi thế, các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin vào môi trường đầu tư Việt Nam, xem đây như là “mắt xích” quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Do đó, để tăng cường thu hút FDI có chất lượng, phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa đất nước, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương cần thực hiện một số giải pháp nhằm “giữ chân” và đẩy mạnh thu hút FDI trong thời gian tới. Trong đó, chính sách đầu tư nước ngoài cần được rà soát, điều chỉnh kịp thời cho phù hợp và theo kịp với những biến động của kinh tế toàn cầu và những thay đổi trong chiến lược thu hút FDI của các nước trên thế giới; đồng thời cần xây dựng lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI với điều kiện đầu tư, hệ thống pháp luật minh bạch, dễ dự đoán trên nền tảng phát triển nền kinh tế thị trường kết nối toàn cầu bằng các quy tắc của pháp luật. Đồng thời, Chính phủ cần xác định cụ thể danh mục ngành, lĩnh vực cần thu hút đầu tư nước ngoài và ngành lĩnh vực chỉ các nhà đầu tư trong nước thực hiện. Đặc biệt xây dựng các quy định, tiêu chuẩn như một bộ lọc mới nhằm lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, có năng lực, khả năng chống chịu sức ép từ bên ngoài để giữ vững và bảo đảm an ninh quốc gia của đất nước.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng về kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế, để tránh các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm bị các nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát và thâu tóm, Chính phủ cần xác định ngưỡng cho phép nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp cổ phần hóa, đặc biệt cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm xem xét cụ thể các thương vụ mua bán và sáp nhập lớn; nhận diện những mặt tồn tại, đúc kết tbài học kinh nghiệm nhằm đẩy mạnh quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần tiếp tục củng cố nền tảng vĩ mô vững mạnh, ổn định; có chiến lược trong xử lý dịch Covid-19, đồng thời cần đẩy nhanh quá trình tiêm chủng vắc-xin để đưa các hoạt động kinh tế - xã hội trở lại bình thường, xóa bỏ tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa, lao động, tạo dựng niềm tin và sự an tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ giao cho các bộ, ngành liên quan đánh giá các mặt được, những điểm còn tồn tại đối với các lợi thế thu hút FDI của Việt Nam, từ đó phát huy những điểm mạnh, khắc phục các tồn tại để phát huy các lợi thế, giúp mang lại hiệu quả hơn trong việc thu hút FDI trong thời gian tới.
Để không bị đứt gãy chuỗi cung ứng lao động, việc hỗ trợ mạng lưới đào tạo nghề, hỗ trợ doanh nghiệp trong đào tạo và tuyển dụng lao động cần được đẩy mạnh triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đặc biệt nhu cầu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sau các “cú sốc” về lao động. Bên cạnh việc dạy kỹ năng nghề cho người lao động, kỷ luật lao động, các kỹ năng mềm, khả năng hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm của người lao động cũng cần được chú trọng để giúp lao động Việt Nam vừa có kỹ năng nghề cao, vừa có tính chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0.
Hà Minh