Theo Báo cáo 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), NSLĐ (NSLĐ) Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm. Điều này cho thấy, mặc dù thời gian qua Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể nhưng tốc độ đuổi kịp của Việt Nam với các nền kinh tế thu nhập cao đã bị chậm lại. Do vậy, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để rút ngắn khoảng cách so với các nước.

Các nhân tố ảnh hưởng đến NSLĐ
Trong giai đoạn 2011 - 2020, tốc độ tăng NSLĐ của Việt Nam là 5,1%, cao hơn mức trung bình của ASEAN, chỉ đứng sau Campuchia, nhưng vẫn thấp hơn Trung Quốc là 7% và Ấn Độ là 6%. Mức tăng trưởng NSLĐ của Việt Nam vẫn chưa đủ nhanh để thu hẹp khoảng cách với các quốc gia khác gia. Cụ thể, NSLĐ của Việt Nam vẫn thấp hơn 26 lần so với Singapore, 7 lần so với Malaysia, 4 lần so với Tung Quốc, 2 lần so với Philippines, 3 lần so với Thái Lan. Nguyên nhân chính làm cho NSLĐ bình quân của Việt Nam thấp là do chất lượng nguồn lao động của Việt Nam thấp, thiếu gắn kết giữa đào tạo và thực hành. Sinh viên, học viên ra trường thiếu các kỹ năng, chuyên môn cần thiết đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Cụ thể, việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp chủ yếu vẫn là sơ cấp, các hình thức đào tạo dưới 3 tháng chiếm 75,3%, còn lại là cao đẳng và trung cấp khoảng 24,7%. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi từ 15 - 45 thường ở mức cao, chiếm 38,7% tổng số người thất nghiệp. So với các nước trong khu vực, kỹ năng lao động của Việt Nam chỉ đạt 46/100 điểm (xếp thứ 103), thứ hạng này thấp hơn nhiều so với nhóm ASEAN-4, chỉ cao hơn Indonesia và Lào. Bên cạnh đó, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng già hóa lao động.
Theo Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), do số lao động làm việc ở khu vực có năng suất thấp; số lao động trong khu vực phi chính thức nhiều. Bên cạnh đó, 4% lực lượng lao động chủ yếu là giới trẻ được coi là không sử dụng hết tiềm năng vì bình quân mỗi ngày họ chỉ làm việc 3,5 tiếng. Báo cáo của dẫn chứng, trong năm 2020, lao động phi chính thức, lao động phổ thông chiếm chủ yếu; lao động đã qua đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp còn thấp, mới đạt 24,5%. Cơ cấu lao động đã qua đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Chính sách an sinh và bảo hiểm của thị trường lao động có độ bao phủ thấp, chưa đạt hiệu quả cao. Những nhân tố trên cũng góp phần làm giảm NSLĐ.
Đáng chú ý là lĩnh vực chế biến, chế tạo được kỳ vọng trở thành đòn bẩy để nâng NSLĐ bình quân chung toàn xã hội, sau một thời gian tăng trưởng khá cao, đã có dấu hiệu chững lại và đi xuống kể từ năm 2010 vì chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp thực hiện ưu đãi tối đa đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (từ 6 nghìn lao động trở lên) hoặc có doanh thu lớn (không quá 20 tỷ đồng/năm). Với những ưu đãi này, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ chế biến, chế tạo, kể cả những lĩnh vực đòi hỏi nhiều chất xám, sẽ không đầu tư nhiều cho thiết bị, công nghệ, dây chuyền tiên tiến, hiện đại, mà tập trung sử dụng nguồn lao động thủ công, trình độ không cao, thù lao thấp.
Cùng với đó, NSLĐ của khu vực FDI thấp hơn so với khu vực doanh nghiệp nhà nước và cao hơn so với khu vực tư nhân. PGS.TS. Nguyễn Đức Thành (Giám đốc điều hành Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chiến lược) cho biết, trong giai đoạn đầu mở cửa nền kinh tế, các nhà đầu tư quốc tế chủ yếu tìm đến Việt Nam để đầu tư những dự án công nghiệp nặng, thâm dụng vốn lớn, do đó NSLĐ của khu vực này trở nên ưu việt hơn. Tuy nhiên, giai đoạn sau đó, doanh nghiệp nước ngoài nhận ra sự kém hiệu quả trong các khoản đầu tư công nghiệp nặng, do đó chuyển hướng sang các ngành có mức thâm dụng lao động cao và hướng vào xuất khẩu như giầy dép, dệt may, lắp ráp điện tử… Trong các lĩnh vực này, sự đóng góp của Việt Nam vào chuỗi giá trị không cao. Mặt khác, các công nghệ, cách thức hoạt động được doanh nghiệp FDI lựa chọn áp dụng tại Việt Nam cũng chủ yếu hướng tới việc không cải thiện NSLĐ mà chỉ mở rộng quy mô nhân công giá rẻ. Điều này làm cho chất lượng lao động khu vực FDI không được cải tiến nâng cao, chủ yếu vẫn là lao động tay chân không qua đào tạo, thực hiện những quy trình dập khuôn. Tỷ trọng lao động chưa qua tay nghề trong nền kinh tế cũng có xu hướng tăng lên.
Cần nỗ lực để rút ngắn khoảng cách với các nước
Mục tiêu là đến năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện được những mục tiêu này thì chìa khóa chính là nâng cao NSLĐ của Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, giai đoạn 2020 - 2030, trung bình mỗi năm, kinh tế số đóng góp vào tốc độ tăng trưởng NSLĐ tổng thể khoảng 7 - 16,5%. Do đó có thể thấy, đóng góp của kinh tế số là rất quan trọng đến năng suất và hiệu quả của nền kinh tế, là một động lực mới để cải thiện NSLĐ. Theo đó, các kế hoạch, phương thức kinh doanh mới cần được khuyến khích, không chỉ là bù đắp cho sự sụt giảm các mô hình truyền thống, mà còn chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Việt Nam cần phải thay đổi tư duy, sử dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trở thành cú huých quan trọng và là trụ cột nền tảng để nâng đỡ quá trình phục hồi, tăng cường năng lực chống chịu và cải thiện chất lượng tăng trưởng theo hướng hiệu quả, xanh và bền vững.

Trong bối cảnh hiện nay, doanh nghiệp đổi mới về khoa học công nghệ rất nhanh, nhưng tư duy, năng lực của cán bộ vận hành công nghệ vẫn chưa theo kịp. Hiện đã có nhiều doanh nghiệp bỏ rất nhiều tiền để đầu tư công nghệ, nhưng hệ thống quản lý không theo kịp vì thế vận hành không hiệu quả. Lực lượng có thể mang lại cải cách, thay đổi NSLĐ cho Việt Nam là rất cần thiết, song lại đang rất thiếu. Vì thế, Việt Nam cần nâng cao năng lực của đội ngũ này. Việt Nam cần thúc đẩy sự tham gia của khu vực doanh nghiệp vào quá trình đào tạo và đào tạo lại lao động, cũng như khuyến khích sự tham gia của người sử dụng lao động, các hiệp hội nghề nghiệp trong thiết kế các chương trình đào tạo. Cùng với đó, vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết cung - cầu lao động trong nước và khu vực cần được tăng cường hơn nữa để góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động ngày càng tiệm cận với yêu cầu chung của thế giới.
Bà Nguyễn Thị Xuân Thúy (Bộ Công Thương) nhận định, Việt Nam chủ yếu vẫn đang thu hút FDI dựa vào những ưu đãi trước đầu tư về đất đai, thuế, phí… mặc dù xu hướng chung của thế giới đang chuyển sang các ưu đãi sau đầu tư, tức là những ưu đãi dựa trên kết quả hoạt động, sản xuất - kinh doanh. Điều này dẫn đến hiện trạng các doanh nghiệp FDI chỉ muốn tận dụng lợi thế, ưu đãi mà không có ý thức thay đổi chiến lược, nâng cao hiệu quả NSLĐ. Do vậy, trong thời gian tới, chiến lược thu hút FDI mới cần có sự thay đổi về tư duy, đặc biệt là vấn đề về ưu đãi, để tạo động lực và trách nhiệm cho doanh nghiệp. Mặt khác, cải thiện trình độ doanh nghiệp nội để tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của khu vực FDI cũng là cách để các nhà đầu tư nước ngoài không dễ dàng rời bỏ thị trường khi giá nhân công tăng lên, thay vào đó là những chiến lược nâng cao NSLĐ. Bên cạnh đó, chính sách tiền lương cho người lao động cần được xem xét điều chỉnh hướng tới mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao. Việc tăng tiền lương tối thiểu buộc người sử dụng lao động phải cải thiện NSLĐ. Như vậy, vấn đề tiền lương tối thiểu cũng là một công cụ để điều tiết NSLĐ.
Nguyễn Hạnh