Tin kinh tế - tài chính trong nước tuần 19 - 23/4/2021

Tin kinh tế - tài chính trong nước tuần 19 - 23/4/2021 23/04/2021 16:21:00 508

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Tin kinh tế - tài chính trong nước tuần 19 - 23/4/2021

23/04/2021 16:21:00

Tổng cung

 

Dịch vụ

Tốc độ tăng trưởng trung bình của thương mại điện tử giai đoạn 2016 - 2019 khoảng 30%. Quy mô thương mại điện tử bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng từ 4 tỷ USD (năm 2015) lên khoảng 11,5 tỷ USD (năm 2019). Tốc độ tăng trưởng của năm 2020 dự báo tiếp tục duy trì ở mức trên 30% và đạt quy mô 15 tỷ USD.

Kết quả khảo sát nhanh của VECOM vào tháng 5/2020 tiếp tục được củng cố cho cả năm 2020 và đầu năm 2021. Theo đó, một mặt các doanh nghiệp đã năng động, thích nghi và quan tâm hơn tới kinh doanh trực tuyến, mặt khác cộng đồng người tiêu dùng mua sắm trực tuyến đang tăng nhanh hơn. Từ hai yếu tố trên, lĩnh vực kinh doanh trực tuyến duy trì được sự ổn định và tăng trưởng tốt, bao gồm bản lẻ hàng hóa trực tuyến, gọi và và đồ ăn, giải trí trực tuyến, tiếp thị trực tuyến, thanh toán trực tuyến, đào tạo trực tuyến. Ước tính chung năm 2020, thương mại điện tử Việt Nam tăng trưởng khoảng 15% và đạt quy mô khoảng 13,2 tỷ USD.

Báo cáo của VECOM cũng đề cập đến các dữ liệu trong báo cáo thương mại điện tử Đông Nam Á 2020 của Google, Temasek và Bain&Company, thương mại điện tử Việt Nam năm 2020 tăng 16% và đạt quy mô trên 14 tỷ USD. Trong đó, lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trực tuyến tăng 46%, gọi xe và đồ ăn công nghệ tăng 34%, tiếp thị, giải trí và trò chơi trực tuyến tăng 18%, riêng lĩnh vực du lịch trực tuyến giảm 28%. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2020 - 2025 được dự báo khoảng 29% và tới năm 2025 quy mô kinh tế số Việt Nam có thể đạt 52 tỷ USD.

(Theo cafef.vn ngày 20/4)

Do tác động của dịch Covid-19, thanh toán điện tử qua Internet, điện thoại di động và QR code tại Việt Nam đã tăng mạnh, thu hút số lượng lớn khách hàng sử dụng trong quý đầu tiên của năm 2021. Cụ thể, trong 3 tháng đầu năm 2021, giao dịch qua kênh Internet đạt 156,2 triệu món, với giá trị 8,1 triệu tỷ đồng (tăng tương ứng 55,9% về số lượng và 28,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020); giao dịch qua kênh điện thoại di động đạt 395,05 triệu món, với giá trị hơn 4,6 triệu tỷ đồng (tăng tương ứng 78% về số lượng và 103% về giá trị); giao dịch qua kênh QR code đạt 5,3 triệu món, với giá trị 4.479 tỷ đồng (tăng tương ứng 83% về số lượng và 146% về giá trị). Bên cạnh đó, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch tài chính hoạt động ổn định, an toàn. Tổng số lượng giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đạt 37 triệu món với giá trị hơn 31 triệu tỷ đồng (tăng 6,32% về số lượng và tăng 22,98% về giá trị giao dịch so với quý I/2020).

Bên cạnh đó, hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử của Công ty cổ phần thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS) cũng có sự tăng trưởng nhanh chóng, đạt 482,5 triệu món với giá trị gần 4,6 triệu tỷ đồng (tăng tương ứng 103,26% về số lượng và 147,65% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020). Tính đến cuối tháng 3/2021, có trên 79 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai thanh toán qua internet và 44 tổ chức thanh toán qua điện thoại di động; toàn thị trường hiện có 272.263 POS và 19.714 ATM (tăng tương ứng 6,06% và 0,85% so với cùng kỳ năm 2020).

(Theo TTXVN ngày 22/4)

Tổng cầu

 

Đầu tư

Theo Tổng cục Thống kê, tỷ trọng vận tải hành khách trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay có sự mất cân đối giữa các phương thức vận tải, thị phần vận tải giữa các lĩnh vực giao thông không đồng đều. Trong đó, vận tải đường bộ là chủ yếu và không phát huy được hiệu quả khai thác của các phương thức vận tải khác.

Cụ thể, vận tải hành khách đường bộ chiếm gần 88%, hàng không chiếm 6,77%, đường thủy nội địa chiếm 4,92%, đường sắt chiếm 0,33%. Trong vận chuyển hàng hóa, đường bộ chiếm 76,5%, đường sông chiếm 17,37%, đường biển chiếm 5,55%, đường sắt chiếm 0,55%, hàng không chiếm 0,02%. Sự mất cân đối giữa các loại hình vận tải gây sức ép lớn lên kết cấu hạ tầng đường bộ, tình trạng ùn tắc, mất an toàn giao thông luôn ở mức cao, thiếu hụt nguồn lực như quỹ đất, nguồn nhân lực cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; đồng thời không khai thác được lợi thế của các loại hình giao thông khác như đường sắt, đường sông, đường biển.

Bên cạnh đó, thống kê của Bộ Giao thông vận tải cho thấy, tỷ trọng vốn đầu tư trong các lĩnh vực của kết cấu hạ tầng giao thông giai đoạn 2011 - 2020 không đồng đều (bao gồm cả vốn ngân sách nhà nước và vốn ngoài ngân sách nhà nước). Trong đó, tỷ trọng vốn đầu tư vào đường bộ chiếm 70,08%; đường sắt chiếm 11,19%; hàng không chiếm 10%; hàng hải chiếm 5,87%; đường thủy nội địa chiếm 2,02%; lĩnh vực khác chiếm 1,19%.

(Theo baodauthau.vn ngày 20/4)

Xuất - nhập khẩu

Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, 15 ngày đầu tháng 4/2021, Việt Nam đạt kim ngạch xuất - nhập khẩu gần 27 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt 12,65 tỷ USD, nhập khẩu đạt 13,96 tỷ USD. Như vậy, Việt Nam nhập siêu hơn 1,3 tỷ USD. Trong đó, có hai nhóm hàng nhập khẩu với kim ngạch đạt hơn 2 tỷ USD là: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 2,82 tỷ USD và máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt hơn 2 tỷ USD.

Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/4, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 91 tỷ USD (90,992 tỷ USD) tăng 26,8% so với cùng kỳ 2020, tương đương con số tăng thêm 19,23 tỷ USD. Ở chiều nhập khẩu, kim ngạch đạt 89,5 tỷ USD, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm 2020, tương đương tăng thêm gần 20,2 tỷ USD. Như vậy, từ đầu năm đến ngày 15/4/2021, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu cả nước đạt 180,5 tỷ USD và vẫn duy trì được thặng dư thương mại với con số xuất siêu gần 1,5 tỷ USD.

(Theo Cafef ngày 22/4)

Cân đối vĩ mô

 

Lao động

Trong quý I/2021, số người tham gia thị trường lao động giảm so với quý IV/2020 và so với cùng kỳ năm 2020, tuy nhiên thu nhập bình quân của người lao động lại được ghi nhận tăng và là điểm sáng trong bức tranh lao động, việc làm những tháng đầu năm. Theo đó, trong quý I/2021, thu nhập bình quân tháng của người lao động đạt 6,3 triệu đồng, tăng 339.000 đồng so với quý trước và tăng 106.000 đồng so với cùng kỳ năm 2020. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ghi nhận tốc độ tăng thu nhập bình quân cao nhất, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2020; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng là 1,5% và khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng thu nhập bình quân thấp nhất, tăng 0,8%. Đặc biệt, thu nhập bình quân tháng của lao động làm công ăn lương quý I/2021 đạt 7,2 triệu đồng, tăng 556.000 đồng so với quý IV/2020 và tăng 132.000 đồng so với cùng kỳ năm 2020.

Sự bùng phát trở lại của dịch Covid-19 ngay trước dịp Tết Nguyên đán đã làm thay đổi xu thế tăng thường thấy so với cùng kỳ các năm trước. Thông thường, theo đà tăng dân số, lực lượng lao động năm sau luôn tăng so với cùng kỳ năm trước.Tuy nhiên, lực lượng lao động quý I/2021 xuống thấp hơn cùng kỳ năm trước gần 200.000 người và thấp hơn cùng kỳ khi chưa có dịch (năm 2019) khoảng 600.000 người.

(Theo TTXVN ngày 19/4)

Báo cáo “Nghiên cứu các vấn đề về giới trong di cư trong nước và tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam”, do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) thực hiện với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) cho biết, nữ hóa lao động di cư vẫn tiếp tục duy trì và mặc dù xu hướng giảm song tình trạng nữ giới trong di cư luôn ở mức cao. Cụ thể, tỷ lệ nữ giới di cư trong huyện từ mức 58,2% (năm 1999) tăng mạnh lên 63,6% (năm 2009) và giảm còn 59,3% (năm 2019). Song tỷ lệ nữ giới di cư giữa các huyện từ mức 55% (năm 1999) tăng lên 56,6% (năm 2009) và tiếp tục duy trì đến năm 2019. Đối với di cư giữa các tỉnh, tỷ lệ nữ giới tăng từ 50% (năm 1999) lên 53,1% (năm 2009) và giảm nhẹ ở mức 52% (năm 2019). Nhóm tuổi lao động di cư tập trung nhiều ở nhóm tuổi 15 - 54 tuổi, chiếm 95,2% tổng số người di cư trên 15 tuổi. Trong đó, nhóm tuổi 15 - 24 tuổi chiếm trung bình khoảng 46,8% và nhóm 25 - 54 tuổi chiếm 48,4%. Luồng di cư lao động tập trung chủ yếu tại khu vực thành thị và các vùng kinh tế phát triển hơn, trong khi khu vực nông thôn và các vùng kinh tế khó khăn hơn có tỷ trọng người di cư thấp hơn nhiều.

(Theo TTXVN ngày 23/4)

Lãi suất

Tính đến hết quý I/2021, nhiều ngân hàng đồng loạt báo cáo lợi nhuận trước thuế tăng gấp nhiều lần so với cùng kỳ. Vị trí quán quân về lợi nhuận thuộc về Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam với mức lợi nhuận trước thuế đạt từ 7 - 8 nghìn tỷ đồng, cao gấp đôi so với cùng kỳ năm 2020. Đây cũng là quý có lợi nhuận cao nhất từ trước đến nay của ngân hàng này. Lợi nhuận này chưa bao gồm khoản phí trả trước của hợp đồng bán bảo hiểm nhân thọ với Manulife.

Giữ vị trí thứ hai thuộc về Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam với lợi nhuận đạt 7 nghìn tỷ đồng, cao hơn 34% cùng kỳ năm 2020 và bằng 28% kế hoạch cả năm. Tiếp đến là Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội với lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt gần 4.600 tỷ đồng, gấp hơn 2,1 lần so với cùng kỳ 2020.

(Theo TTXVN ngày 22/4)

Tín dụng

Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tính hết quý I/2021, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt 2,93%, cao hơn rất nhiều so với mức tăng 1,31% cùng kỳ năm 2020. Tăng trưởng tín dụng trong quý I/2021 cũng cao hơn nhiều so với mức tăng trung bình 2,78% trong quý I của 7 năm trở lại đây (kể từ năm 2015 tới nay). Ngược lại, tăng trưởng huy động vốn tính đến ngày 19/3/2021 chỉ đạt 0,54%, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín dụng và mức trung bình 2,28% trong quý I của 7 năm trở lại đây. Theo Tổng cục Thống kê, nguồn vốn đang đổ rất mạnh vào các lĩnh vực đầu tư như bảo hiểm, trái phiếu, cổ phiếu… Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng tới 11%, trong khi tổng mức huy động vốn trên thị trường chứng khoán 3 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt gần 55.600 tỷ đồng, tăng 42% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với lĩnh vực bất động sản, số liệu của NHNN cho thấy, tín dụng cho lĩnh vực này tăng 2,13% cao hơn so với tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế nói chung. Ngoài ra, lãi suất tiết kiệm đang ở mức thấp, trong khi các kênh đầu tư như chứng khoán, bất động sản tăng mạnh, làm cho dòng tiền có dấu hiệu chảy từ ngân hàng sang các kênh này. Trong khi đó, lạm phát ở Việt Nam đang ở mức cao hơn so với khu vực. Chẳng hạn Trung Quốc lạm phát 2%, Phillipines và Indonesia lạm phát 2,5%, thế giới lạm phát trung bình cũng chỉ ở mức 2%. Còn Việt Nam, lạm phát năm vừa qua là hơn 3,2%, mục tiêu năm 2021 phấn đấu dưới 4%.

(Theo congthuong.vn ngày 21/4)

Tính đến cuối tháng 3/2021, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản đạt khoảng 1,85 triệu tỷ đồng, tăng 3% so với tháng 12/2020. Trong khi đó, quý I/2020 tăng 1,45%; quý I/2019 tăng 3,42%; quý I/2018 tăng 1,68%. Theo Ngân hàng Nhà nước, mức tăng này không đáng kể so với tốc độ tăng trưởng tín dụng chung là 2,93%.

Trong cho vay bất động sản, dư nợ tín dụng đầu tư kinh doanh đạt 651.631 tỷ đồng, tăng 2,82% so với cuối năm 2020, chiếm tỷ trọng 35,5% dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản và chiếm tỷ trọng 7,04% tổng dư nợ đối với nền kinh tế. Dư nợ tín dụng tiêu dùng/tự sử dụng bất động đạt 1,183 triệu tỷ đồng, tăng 1,75% so với cuối năm 2020, chiếm 64,5% dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản, chiếm tỷ trọng 12,79% tổng dư nợ đối với nền kinh tế. Tăng trưởng nóng của bất động sản thời gian qua là xuất phát từ việc các nhà đầu tư có hiện tượng ‘lướt sóng’ do các địa phương ban hành bảng giá tăng 15 - 20%. Mặt khác, thị trường chứng khoán tăng, tiền chốt lời nên các nhà đầu tư chuyển vào bất động sản.

(Theo TTXVN ngày 22/4)

Tính đến ngày 16/4/2021, tổng phương tiện thanh toán (M2) tăng 2,9% so với cuối năm 2020 và tăng 15,66% so với cùng kỳ năm 2020. Thanh khoản hệ thống thông suốt. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm 0,1% so với tháng 12/2020. Ttín dụng toàn nền kinh tế đạt 9,49 triệu tỷ đồng, tăng 3,34% so với cuối năm 2020 (cùng kỳ năm 2020 tăng 0,78%).

Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; hỗ trợ tích cực quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển thủy sản, công nghiệp hỗ trợ; hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Cụ thể, dư nợ tín dụng đối với ngành nông, lâm, thủy sản đạt 776.918 tỷ đồng, tăng 2,42% so với cuối năm 2020, chiếm 8,4%; dư nợ tín dụng đối với ngành công nghiệp và xây dựng đạt 2,6 triệu tỷ đồng, tăng 3,42%; dư nợ tín dụng ngành thương mại dịch vụ đạt 5,9 triệu tỷ đồng, tăng 2,79% so với cuối năm 2020.

Dư nợ đối với 5 lĩnh vực ưu tiên cũng tăng mạnh. Cụ thể, tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 2,3 triệu tỷ đồng, tăng 2,4% so với năm 2020; tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 1,8 triệu tỷ đồng, tăng 1,49% so với cuối năm 2020; tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu (không bao gồm đầu tư trái phiếu doanh nghiệp) đạt 279.075 tỷ đồng, tăng khoảng 2,5% so với cuối năm 2020; tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đạt 234.321 tỷ đồng, tăng 3,04%; tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt 32.470 tỷ đồng, tăng 0,3% so với cuối năm 2020, chiếm tỷ trọng 0,33% dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế (cuối năm 2020 tăng 5,26%, chiếm 0,35%.

(Theo TTXVN ngày 22/4)

Nhận định

chuyên gia

Công ty tư vấn Oxford Economics:

Công ty tư vấn Oxford Economics ngày 13/4/2021 đã đưa ra những đánh giá tích cực về Việt Nam. Trong khi trao đổi thương mại thế giới giảm 7,8% trong năm 2020, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng 6,9% là con số lạc quan. Điểm đáng chú ý khác là tổng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam tăng 0,5%, góp phần làm tăng vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng sản xuất và chế tạo toàn cầu.

Theo Oxford Economics, Việt Nam sẽ hưởng lợi về nhu cầu gia tăng đối với hàng điện tử toàn cầu và sự tham gia của Việt Nam trong chuỗi cung ứng này. Ngoài máy tính và hàng điện tử khác, văn phòng phẩm, nội thất văn phòng là những mặt hàng có nhu cầu tăng trong bối cảnh nhu cầu làm việc từ nhà trên toàn cầu ngày càng phổ biến, mặc dù nhu cầu này sẽ giảm trong năm nay khi tình hình dịch bệnh được cải thiện. Việc khôi phục trạng “bình thường mới” sau đại Covid-19 cũng sẽ góp phần thúc đẩy thương mại thế giới và Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ khu vực xuất khẩu. Đồng thời, gói kích cầu kinh tế 1.900 tỷ USD của Hoa Kỳ nhiều khả năng làm tăng nhu cầu của nước này nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam.

(Theo TTXVN ngày 16/4)

Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)

Tại báo cáo “Thúc đẩy phục hồi kinh tế và cải cách thể chế sau dịch Covid-19”, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhận định, dịch Covid-19 bùng phát đã làm trầm trọng thêm những rủi ro trên đối với kinh tế toàn cầu, đồng thời buộc các nền kinh tế phải đẩy nhanh những cải cách thể chế, gắn với tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế số. Tại Việt Nam, Chính phủ đã phản ứng quyết liệt và khá sớm với các đợt bùng phát của dịch Covid-19 và được đánh giá là tương đối thành công trong kiểm soát dịch bệnh. Trong quý I/2021, các hoạt động kinh tế - xã hội tiếp tục đà phục hồi. Hoạt động tiêm vaccine đã dần được triển khai, nhiều cuộc thảo luận xoay quanh mở lại các đường bay quốc tế, “hộ chiếu vắc-xin”… được đề cập gần đây nhằm hướng đến mở cửa trở lại nền kinh tế một cách an toàn, đồng bộ và bền vững.

Trong bối cảnh dịch, Việt Nam duy trì có tốc độ tăng GDP đạt 2,91% trong năm 2020 và phục hồi ở mức 4,48% trong quý I/2021. Với kết quả này, các tổ chức quốc tế đều duy trì đánh giá tích cực về kinh tế Việt Nam, cao hơn so với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới và khu vực Đông Á. Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra tổng vốn phát triển toàn xã hội năm 2020 tăng 5,7% và thấp hơn 4,5 điểm phần trăm so với năm 2019, bên cạnh đó tỷ trọng đầu tư/GDP chỉ đạt 34,4%; hiệu quả đầu tư tính theo hệ số ICOR sụt giảm đột ngột trong năm 2020 (hệ số ICOR tăng tới gần 14,3). Trong khi đó, dịch Covid-19 trên thế giới còn diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực của dịch bệnh đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội còn tiếp tục kéo dài, chưa thể đánh giá hết. Theo báo cáo, phục hồi kinh tế cần phải song hành với cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam” với những đề xuất lộ trình chính sách cho giai đoạn 2021 - 2023. Cụ thể là tiếp tục phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả, tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp và người lao động, kết hợp với cải cách thể chế kinh tế trong năm 2021; kết hợp giải pháp phục hồi và cải cách thể chế kinh tế trong năm 2022; rút dần các giải pháp hỗ trợ phục hồi tăng trưởng, tập trung vào cải cách thể chế kinh tế trong năm 2023. (Theo TTXVN ngày 22/4)