Luận cứ khoa học để ứng dụng thuế phát thải các-bon tại Việt Nam

Luận cứ khoa học để ứng dụng thuế phát thải các-bon tại Việt Nam 25/02/2020 11:04:00 3437

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Luận cứ khoa học để ứng dụng thuế phát thải các-bon tại Việt Nam

25/02/2020 11:04:00

- Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Tài chính - Marketing

- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Lê Quốc Thành

- Năm giao nhiệm vụ: 2017/Mã số: 2017-45

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Hiện tượng trái đất nóng lên do tích tụ khí phát thải, chủ yếu là carbon dioxide (CO2) hay gọi tắt là khí thải các-bon ở tầng khí quyển ôzôn còn được gọi là hiệu ứng nhà kính, gây biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Có nhiều biện pháp để ngăn chặn sự biến đổi khí hậu toàn cầu, trong đó chủ yếu là cắt giảm lượng khí thải toàn cầu đã được nhiều quốc gia phê chuẩn năm 1997 tại Nhật Bản (Nghị định thư Kyoto 1997 về chống biến đổi khí hậu). Hiện đã có 21 quốc gia áp dụng thuế các-bon và sẽ có thêm 2 quốc gia áp dụng từ sau năm 2019, trong đó có Singapore tại khu vực ASEAN.

Nhiều dự án đầu tư vào Việt Nam có mục đích để tránh bị đánh thuế phát thải các-bon, đưa thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu vào Việt Nam, dẫn đến chất lượng đầu tư không cao. Áp thuế các-bon có thể khắc phục các vấn đề trên, giúp tăng thu ngân sách, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng đầu tư, nâng cao sự bình đẳng trong đầu tư giữa các doanh nghiệp, góp phần vào chiến lược chống biến đổi khí hậu toàn cầu, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; tuy nhiên, điều này gây ra sự quan ngại làm giảm đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam. Do đó, việc áp dụng thuế các-bon cần được nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực, nhất là đối với đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng.

Khả năng Việt Nam cần áp dụng thuế các-bon trong tương lai gần là hiện hữu nhằm thực hiện các cam kết và tham gia sâu rộng hơn vào hội nhập quốc tế. Nghiên cứu “Luận cứ khoa học để ứng dụng thuế phát thải các-bon tại Việt Nam” hướng đến phát triển các luận cứ ủng hộ việc áp thuế phát thải các-bon, cũng như đề xuất các chính sách giảm thiểu tác động tiêu cực từ việc đánh thuế phát thải các-bon đến đầu tư.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Xây dựng luận cứ khoa học vững chắc nhằm đề xuất áp thuế phát thải các-bon tại Việt Nam ở mức độ hợp lý, giảm thiểu tác động tiêu cực đến đầu tư, giảm bớt đầu tư với các thiết bị công nghệ cũ, quá lạc hậu, thu hút các dự án đầu tư với thiết bị công nghệ tốt hơn. Cơ sở lý luận xây dựng thuế phát thải các-bon có thể được ứng dụng sang các loại hình thuế tương tự (thuế năng lượng, thuế môi trường...) trong tương lai.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Thuế phát thải các-bon.

Phạm vi nghiên cứu: Các nghiên cứu có liên quan đến sắc thuế phát thải các-bon, cách thức áp thuế phát thải các-bon, mức thuế suất tại một số quốc gia trên thế giới đã áp dụng thuế phát thải các-bon, cũng như một số loại thuế liên quan đến thuế phát thải các-bon tại Việt Nam như thuế môi trường.

4. Kết quả nghiên cứu

(1) Đề tài đã chỉ ra các nhân tố tác động đến dòng vốn FDI và đầu tư nói chung của doanh nghiệp ở cấp độ vĩ mô như tỷ giá hối đoái, ổn định chính trị và quan hệ ngoại giao, chính sách đầu tư, chính sách tiếp cận và mở rộng thị trường, thuế, thủ tục và các nội dung trong quá trình đầu tư, giá bán sản phẩm/dịch vụ; trong đó, thuế và rủi ro về chính sách thuế có tác động tiêu cực đến dòng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế. Trên cơ sở các phát hiện và khẳng định trong chương 2, đề tài đã đưa ra một số gợi ý chính sách thúc đẩy thu hút đầu tư FDI và đầu tư nói chung nhằm hạn chế tác động tiêu cực từ thuế phát thải các-bon (nếu được áp dụng) đến đầu tư của doanh nghiệp, bao gồm: Cam kết ổn định luật liên quan đến đầu tư; ổn định kinh tế vĩ mô; rủi ro về thuế phát thải các-bon; rủi ro về khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường, cũng như rủi ro về giá bán.

(2) Trong bối cảnh thuế phát thải các-bon chưa được áp dụng nên số liệu định lượng trong thực tiễn nền kinh tế chưa phản ánh được tác động của nhân tố trong tương lai (thuế phát thải các-bon) tác động đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp, đề tài đã mô hình hóa tác động của thuế phát thải các-bon trong tương lai bằng mô hình kinh tế toán (mathematical model) với các giả định hợp lý. Mô hình kinh tế toán được xây dựng theo Varina (1992) với thuế phát thải các-bon và các nhân tố đầu vào cho hàm lợi nhuận của donh nghiệp như: Lượng vốn (K), lượng lao động (L), chi phí vốn (r), chi phí nhân công (w). Sau khi phát triển mô hình kinh tế toán với kỹ thuật tối ưu hóa (optimization) cho ra các kết quả là thuế phát thải các-bon làm giảm đầu tư nhưng chất lượng đầu tư có thể tăng hoặc được cải thiện tốt hơn. Phát hiện này trùng lặp với các kết quả nghiên cứu của Wei và cộng sự (2006), cũng như các nghiên cứu đã công bố khác là thuế phát thải các-bon có tác dụng tạo sức ép buộc các doanh nghiệp chuyển sang công nghệ giảm phát thải, công nghệ cao hơn nhằm giảm chi phí trong dài hạn. Như vậy, nếu áp thuế phát thải các-bon trong thực tiễn sẽ giảm đầu tư nhưng sẽ giúp nâng cao chất lượng đầu tư.

(3) Đề tài tập trung khảo cứu các nghiên cứu về thuế phát thải các-bon và cách thức áp thuế phát thải các-bon, mức thuế suất tại một số quốc gia trên thế giới đã áp dụng thuế phát thải các-bon. Thuế phát thải các-bon là loại thuế được đề xuất đánh trực tiếp vào doanh nghiệp gây phát thải khí CO2 đã được áp dụng tại nhiều quốc gia trên cơ sở giá trị tuyệt đối tính trên tấn CO2 phát thải. Việc áp dụng trực tiếp này có ưu điểm là gây sức ép để các doanh nghiệp phát thải phải thay đổi công nghệ thiết bị theo hướng giảm phát thải. Việt Nam cần cân nhắc và áp dụng thuế phát thải các-bon do nhiều lợi ích mà sắc thuế này mang lại bên cạnh lợi ích chung của thuế là tăng thu ngân sách nhà nước; tuy nhiên cần áp dụng đồng bộ cùng nhiều biện pháp khác nhằm giảm các tác động tiêu cực đến đầu tư, doanh nghiệp và nền kinh tế.

(4) Đề tài đã đề xuất việc áp dụng thuế phát thải các-bon tại Việt Nam theo lộ trình, mức thu thuế dự kiến, đối tượng và gợi ý một số biện pháp chính sách nhằm hạn chế tác động tiêu cực của việc đánh thuế phát thải các-bon đến đầu tư.

(i) Đối tượng và lộ trình thực hiện: Trước tiên cần có nghiên cứu và khẳng định sự không trùng lặp trong định nghĩa về mục đích của thuế môi trường trong các văn bản pháp luật, cũng như các đề án đã đề xuất thuế môi trường nhằm đảm bảo tách biệt giữa thuế môi trường và thuế phát thải các-bon. Thứ hai, cần có lộ trình áp dụng từng bước, ban đầu có thể áp thuế cho các đối tượng có mức độ xả thải lớn như nhiệt điện chạy than, chạy khí, nhà máy thép sử dụng than phát điện và than đốt lò cao, các nhà máy vật liệu xây dựng sử dụng than... Việc áp thuế phát thải các-bon trong thời kỳ này nên dựa trên hạn ngạch phát thải (Emission Quota), nếu các nhà máy vượt ngưỡng cho phép dựa trên khối lượng sản phẩm sản xuất được, sẽ phải đóng thuế phát thải các-bon cho phần bị vượt ngưỡng. Biện pháp này giúp thị trường dần điều chỉnh với một sắc thuế mới, không gây các cú sốc về chi phí và tâm lý mạnh. Tiếp đến có thể áp thuế phát thải các-bon xuất khẩu đối với các mặt hàng sử dụng tiêu hao nhiều năng lượng trong nước nhưng lại phục vụ để xuất khẩu. Ngoài ra, thuế phát thải các-bon cũng cần được áp dụng tiến đến từng hộ gia đình nhằm hạn chế tiêu dùng điện tại các giờ cao điểm và kích thích tiêu thụ tại giờ thấp điểm, giúp hạn chế tổn hao năng lượng và hạn chế việc phải sản xuất cấp bù điện (từ các nhà máy sản xuất điện sử dụng dầu diezel gây phát thải lớn).

(ii) Mức thu dự kiến: Mức thuế phát thải các-bon thời kỳ đầu nên dựa theo mức thuế phát thải các-bon của một số quốc gia đang phát triển hay các nước có thu nhập trung bình đang dự kiến áp dụng. Hiện một số nước tại Châu Á - Thái Bình dương đang dự kiến ở mức 10 - 30 USD/tấn phát thải CO2. Cơ sở để tính thuế phát thải các-bon nên dựa trên thông lệ quốc tế hiện nay là tính bằng tiền trên từng tấn CO2 phát tán ra ngoài không khí.

(iii) Phương pháp thu: Nên tiến hành thu trực tiếp các doanh nghiệp gây phát thải, giúp ít bị phản ứng hơn là thu gián tiếp thông qua các nhà cung cấp đầu nguồn. Đối với thuế phát thải các-bon xuất khẩu dành cho sản phẩm thâm dụng năng lượng, cần áp thuế trên khối lượng hàng xuất khẩu. Tuy nhiên đây là đối tượng xuất khẩu nên công tác thu thuế sẽ gặp nhiều khó khăn, vì vậy cần xây dựng chi tiết chu trình, trình tự, thủ tục thu một cách hợp lý, rõ ràng.

Bên cạnh đó, đề tài cũng đề xuất một số nghiên cứu bổ sung nhằm đồng bộ hóa các biện pháp của các ngành khác góp phần gia tăng hiệu quả của thuế phát thải các-bon, tăng thu ngân sách và góp phần điều chỉnh khả năng thu hút đầu tư nước ngoài với chất lượng đầu tư tốt hơn. Cụ thể: (i) Xem xét thuế phát thải các-bon có ảnh hưởng đến các hiệp định thương mại song và đa phương hay không?; (ii) Cần nghiên cứu các đề án xây dựng thuế môi trường xem đã bao gồm thuế phát thải các-bon hay chưa? Nếu đã bao hàm thì xem xét lại các mức thuế suất môi trường với các ngành, sản phẩm gây phát thải lớn như than, khí, xăng dầu…; (iii) Cần đề xuất Chính phủ giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng các định mức phát thải cho các ngành gây phát thải lớn, tiêu tốn năng lượng lớn hay xả thải nước lớn từ quá trình sản xuất để làm cơ sở tính thuế; (iv) Đề xuất với Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường thông qua các diễn đàn khu vực vận động các nước có điều kiện đầu tư tương đồng, nhất là trong khu vực ASEAN cùng tham vấn áp dụng thuế phát thải các-bon; (v) Xây dựng chương trình phát triển xanh đồng bộ cũng như thông qua các diễn đàn đầu tư với doanh nghiệp phát tín hiệu cho thị trường về việc áp dụng thuế phát thải các-bon tại Việt Nam, giúp các doanh nghiệp hiểu và có đầy đủ thông tin về thuế phát thải các-bon trong tương lai. Việc phát tín hiệu và cung cấp thông tin giúp các doanh nghiệp có thông tin tốt hơn trong quyết định đầu tư./.