- Đơn vị chủ trì: Ban Chính sách tài chính doanh nghiệp
- Chủ nhiệm nhiệm vụ: TS. Phạm Thị Tường Vân
- Năm giao nhiệm vụ: 2017 Mã số:2017- 42
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Trong thời gian qua, kinh tế biên mậu, hoạt động thương mại qua biên giới dưới các hình thức xuất - nhập khẩu hàng hoá qua biên giới, buôn bán tại các chợ (chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu) và trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới, đã góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của các tỉnh có biên giới đất liền của Việt Nam với Trung Quốc, Lào, Cambodia.
Mặc dù kinh tế biên mậu, hoạt động thương mại biên giới có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Do đó, việc thực hiện khảo sát thực tế ở các địa phương về “Chính sách phát triển kinh tế biên mậu ở Việt Nam” có ý nghĩa thực tiễn cao nhằm đề xuất các giải pháp, chính sách để phát triển kinh tế biên mậu, hoạt động thương mại qua biên giới tương xứng với tiềm năng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Nhận diện bất cập, khoảng trống chính sách phát triển kinh tế biên mậu ở góc độ tài chính.
Mục tiêu cụ thể: Nhận diện bức tranh thực trạng về tình hình phát triển kinh tế biên mậu và tiềm năng phát triển, thực trạng chính sách và những bất cập trong chính sách phát triển kinh tế biên mậu, phân tích chính sách để gợi mở quan điểm định hướng chính sách nói chung và chính sách tài chính nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách phát triển kinh tế biên mậu.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung nghiên cứu: Hoạt động kinh tế biên mậu tại các địa bàn có cửa khẩu đất liền với Trung Quốc, Lào và Cambodia, trong đó tập trung vào các chính sách liên quan đến hoạt động kinh tế biên mậu, qua biên giới đất liền giữa các nước có chung đường biên giới với Việt Nam, đặc biệt là các chính sách về thương mại (hàng hoá, thị trường, xúc tiến thương mại, thanh toán biên mậu...), chính sách quản lý (đối với hoạt động thương mại qua biên giới, cửa khẩu, chợ), chính sách hỗ trợ (tài chính, cơ sở hạ tầng…).
+ Không gian nghiên cứu: 8 địa bàn đại diện cho quan hệ biên giới đất liền với 3 quốc gia gồm: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Tây Ninh, Bình Phước.
+ Thời gian nghiên cứu: Giai đoạn 5 năm gần nhất.
4. Kết quả nghiên cứu
(1) Những kết quả đạt được: Qua nghiên cứu, khảo sát, đề tài đã chỉ ra được những kết quả đạt được trong việc phát triển kinh tế biên mậu, trên các mặt cụ thể như sau:
(i) Chính sách về thương mại: Tại khu vực cửa khẩu quốc tế, hoạt động xuất - nhập khẩu được thực hiện theo thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết, nhằm tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động xuất - nhập khẩu qua các khu vực này. Bên cạnh đó, các chính sách thương mại của Việt Nam cùng với các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành trung ương cũng được các tỉnh triển khai thực hiện. Xuất - nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu phụ, lối mở biên giới: có danh sách thương nhân, thực hiện thí điểm xuất khẩu. Hoạt động tạm nhập tái xuất hàng hóa qua các cửa khẩu phụ, lối mở biên giới: một số tỉnh đã ban hành quy định về lựa chọn công bố doanh nghiệp, quản lý hàng hóa, quy hoạch hệ thống kho bãi. Thanh toán biên mậu có nhiều hình thức thanh toán được áp dụng. Hàng hóa trao đổi của cư dân biên giới có hệ thống tham khảo giá.
(ii) Chính sách quản lý, phát triển các chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu: Các địa phương quy hoạch phát triển khu (điểm) chợ bằng nguồn vốn ngân sách hoặc từ khu vực tư nhân. Các ban quản lý cửa khẩu được thành lập để quản lý đường mòn, lối mở, cửa khẩu phụ.
(iii) Chính sách hỗ trợ: Đối với hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, hầu hết các địa phương khảo sát đều triển khai áp dụng những chính sách hỗ trợ chung của trung ương cũng như các chính sách riêng của từng địa phương đối với doanh nghiệp hoạt động thương mại biên mậu, đặc biệt là những hỗ trợ về thủ tục hành chính, phổ biến văn bản pháp luật, tổ chức đối thoại, điều chỉnh một số loại phí trong thẩm quyền. Việc hỗ trợ về cơ sở hạ tầng cũng được chú trọng, tuy nhiên do còn phụ thuộc vào nguồn ngân sách trung ương, nên nguồn hỗ trợ thường dành cho các khu trọng điểm và còn tương đối dàn trải. Nguồn thu từ hoạt động kinh tế biên mậu chủ yếu là từ thu phí sử dụng cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu hay phí bến bãi và thuế nộp của các doanh nghiệp trên xuất - nhập khẩu, cung cấp dịch vụ bến bãi, nhưng không nhiều và được nhập vào ngân sách địa phương để phân bổ chung, sau khi trích lại một tỷ lệ nhất định cho các khu vực cửa khẩu (thường là cho ban quản lý cửa khẩu hoặc ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu để duy trì lực lượng cán bộ làm công tác quản lý).
(iv) Triển khai các hiệp định song phương giữa hai nước có chung đường biên giới đất liền: Các địa phương có chung đường biên giới chủ động thực hiện các nội dung của hiệp định nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và cư dân biên giới trong trao đổi hàng hóa.
(2) Một số tồn tại, vướng mắc: Đề tài cũng nêu rõ những hạn chế, cũng như khó khăn, vướng mắc trong phát triển kinh tế biên mậu:
(i) Tình hình phát triển kinh tế, hoạt động thương mại vùng biên còn hạn chế do: (i) Trình độ phát triển kinh tế thấp, đặc biệt là Lào và Cambodia; (ii) Khu vực vùng biên có vị trí tách biệt, điều kiện khó khăn về giao thông; (iii) Thiếu cơ sở hạ tầng; (iv) Cơ chế, chính sách thiếu linh hoạt, chủ động trong đối phó với những thay đổi từ phía nước bạn; (v) Chính sách của các nước láng giềng; (vi) Du lịch khu vực vùng biên chưa đủ sức hấp dẫn với khách du lịch trong và ngoài nước.
(ii) Phát triển doanh nghiệp tại địa phương còn hạn chế do điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, không hấp dẫn được đầu tư, kinh doanh mang tính thời vụ, quy mô nhỏ, quản lý theo mô hình gia đình, hoạt động đơn lẻ, thiếu liên kết. Doanh nghiệp gặp rủi do sự thay đổi chính sách đột ngột của nước bạn và thiếu chủ động trong việc tiếp cận chủ trương, chính sách cũng như dự báo những thay đổi và lường trước rủi ro và phòng tránh. Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp mới chỉ dừng ở cột mốc biên giới, sau khi hàng hóa, doanh nghiệp sang phía nước bạn và khi phát sinh vướng mắc thì doanh nghiệp Việt Nam thường chịu thiệt thòi. Bên cạnh đó, công tác quản lý, thủ tục hành chính tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp.
(iii) Các khu kinh tế cửa khẩu còn chưa phát huy được vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước và của tỉnh biên giới, do nguồn lực thiếu, phân tán, dàn trải, quy hoạch chưa tương xứng tiềm năng phát triển và cơ chế điều hành khu kinh tế cửa khẩu chưa thống nhất, đặc biệt chính sách ưu đãi cũng không ổn định.
(iv) Chính sách đối với hàng hóa biên giới và phát triển các chợ biên giới còn nhiều bất cập do danh mục hàng hóa chưa phù hợp với nhu cầu; tình hình buôn lậu diễn biến phức tạp và chính sách chưa đủ hiệu quả…
(3) Những giải pháp, kiến nghị
(i) Xây dựng mới các quy hoạch phát triển thương mại giữa hai nước có chung biên giới, quy hoạch phát triển thương mại giữa hai tỉnh có đường biên giới đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, các lĩnh vực theo các quan điểm, định hướng, trong đó, tiếp tục duy trì và đẩy mạnh các thỏa thuận hợp tác, các hiệp định thương mại đã ký kết giữa Việt Nam với các nước; tiếp tục đánh giá và có chiến lược tham gia vào các hành lang kinh tế một cách chủ động.
(ii) Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm gia tăng các hoạt động xuất khẩu của các tỉnh biên giới sang các nước thông qua biên giới giữa Việt Nam với Lào, Cambodia và Trung Quốc, trong đó đặc biệt chú trọng các hoạt động xuất khẩu của các tỉnh biên giới Việt Nam sang Vân Nam - Trung Quốc theo hướng: (i) Rà soát và nâng cao hiệu lực thực thi trong thực tiễn các điều khoản đã cam kết giữa Việt Nam với các nước láng giềng; (ii) Đẩy mạnh hợp tác đầu tư gắn với thương mại; (iii) Tập trung vào chính sách phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, thương mại gắn với triển khai xây dựng vành đai kinh tế giữa các tỉnh của Việt Nam với các nước; (iv) Rà soát và hoàn thiện các chính sách ưu đãi đối với thương nhân và cư dân biên giới theo hướng phù hợp với từng khu vực cửa khẩu giữa Việt Nam với các nước Lào, Cambodia và Trung Quốc, như hoàn thiện danh mục hàng hóa mua, bán, trao đổi của cư dân biên giới trong Thông tư số 54/2015/TT-BCT, chính sách khác biệt về thuế, phí, lệ phí đối với doanh nghiệp, xóa bỏ bớt các thủ tục, các quy định chưa phù hợp đối với doanh nghiệp (Thông tư số 11/2017/TT-BCT, Thông tư số 04/2017/TT-BNNPTNT).
(iii) Để thúc đẩy tốc độ xây dựng và phát triển kinh tế biên mậu cần giải quyết những vấn đề sau: (i) Đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ tại cửa khẩu biên giới, trong đó cải thiện điều kiện giao thông vận tải; tăng cường cơ sở vật chất thương mại và có những giải pháp hỗ trợ hoạt động thương mại biên giới; (ii) Cung cấp thông tin cho thương nhân và cư dân biên giới về cửa khẩu, cơ chế, chính sách, thị trường, hàng hóa… để tránh tình trạng ùn tắc, thiệt hại cho doanh nghiệp, cư dân và người sản xuất, quá tải cho công tác quản lý; tổng hợp, phân tích tình hình thị trường và cập nhật kịp thời các chính sách của hai bên đối với hoạt động thương mại biên giới; (iii) Hỗ trợ nâng cao năng lực cho thương nhân thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng về luật pháp, quy tắc xuất xứ, phương thức thanh toán, ký kết hợp đồng, chất lượng sản phẩm, quy cách đóng gói, bảo quản theo quy định và thông lệ quốc tế trong hoạt động thương mại biên giới và yêu cầu của bên mua hàng; (iv) Củng cố hoạt động và tăng cường tiếp xúc giữa các ban chỉ đạo điều hành thương mại biên giới với chính quyền các tỉnh biên giới hai nước, cải thiện hệ thống thanh toán, nghiên cứu thành lập hiệp hội kinh doanh biên mậu.
(iv) Doanh nghiệp cần chuẩn bị những điều kiện tiền đề để hoạt động “lâu dài và bài bản” với các bạn hàng nước bạn; từng bước chuyển sang hoạt động buôn bán chính ngạch; liên kết để tạo lợi thế cạnh tranh tổng lực.
(v) Các địa phương có chung đường biên giới đất liền với các nước Trung Quốc, Lào, Cambodia cần chú trọng xây dựng khu hợp tác kinh tế biên giới; tạo lập các kênh thông tin trong từng địa phương và toàn vùng để phối hợp tổ chức, quản lý, chỉ đạo trên tuyến biên giới; đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ liên ngành; rà soát hệ thống cửa khẩu, phân loại, xác lập vị trí để có kế hoạch đầu tư nâng cấp; hỗ trợ cho cư dân, đặc biệt là định hướng sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, vay vốn và tiêu thụ sản phẩm; đồng thời triển khai nhanh việc xây mới, cải tạo, nâng cấp mạng lưới chợ biên giới theo quy hoạch đã được phê duyệt, tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các chính sách ưu đãi đặc biệt.