Kinh tế - Tài chính Việt Nam năm 2016 và dự báo năm 2017

Kinh tế - Tài chính Việt Nam năm 2016 và dự báo năm 2017 20/02/2018 16:22:00 446

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Kinh tế - Tài chính Việt Nam năm 2016 và dự báo năm 2017

20/02/2018 16:22:00

- Đơn vị chủ trì: Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính

- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Đào Mai Phương

- Năm giao nhiệm vụ: 2017  Mã số: 2017-33

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Năm 2016, kinh tế toàn cầu có xu hướng tăng trưởng chậm lại, chỉ đạt 3,1% - mức thấp nhất kể từ năm 2010, do phải đối mặt với nhiều thách thức từ những bất ổn địa - chính trị, xung đột vũ trang, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy và những tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu. Nhiều quốc gia đã thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm duy trì và hỗ trợ tăng trưởng, chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế theo hướng tập trung vào tiêu dùng nội địa, giảm sự lệ thuộc vào cầu của thế giới, thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa nới lỏng, các gói kích thích kinh tế để hỗ trợ tăng trưởng. Trong nước, nền kinh tế cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn do ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới chậm hồi phục và có nhiều rủi ro, thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế biến động mạnh. Bên cạnh đó, các tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng.

Trong bối cảnh đó, trọng tâm của tài chính năm 2016 là tăng cường kỷ cương và kiến tạo động lực, huy động tối đa các nguồn lực tài chính để phát triển doanh nghiệp và tái cơ cấu nền kinh tế. Theo đó, chính sách tài khóa năm 2016 tiếp tục được điều hành theo hướng thắt chặt chi tiêu công nhằm khắc phục tình trạng bội chi ngân sách nhà nước liên tục gia tăng trong giai đoạn 2011 - 2015 và tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, giảm chi thường xuyên nhằm đảm bảo sự bền vững của cơ cấu chi. Trên thị trường tài chính, các chính sách kiểm soát rủi ro, ổn định thị trường được triển khai để nâng cao công tác quản lý, giám sát, đặc biệt đối với hệ thống ngân hàng. Chất lượng sản phẩm tín dụng, chất lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm được kiểm soát chặt chẽ, tạo điều kiện linh hoạt cho các tổ chức tín dụng có điều kiện mở rộng tín dụng trong an toàn. Công tác xử lý nợ xấu và phát triển thị trường theo hướng tăng cường tính bền vững, hiệu quả, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô cũng được đẩy mạnh. Đồng thời, với trọng tâm là khơi thông nguồn vốn, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, các chính sách tài chính - ngân sách được triển khai theo hướng huy động tối đa các nguồn lực tài chính, bao gồm tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư và tài chính đối ngoại cho phát triển kinh tế; các thủ tục hành chính về thuế, hải quan tiếp tục được cải thiện. Ngoài ra, nhiều cơ chế hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo góp phần tạo động lực để nâng cao nguồn lực tài chính của các chủ thể trong xã hội cũng đã được ban hành.

Việc lựa chọn chủ đề nghiên cứu “Đánh giá kinh tế - tài chính Việt Nam 2016 và dự báo 2017” nhằm đưa ra các phân tích, nhận định và đánh giá về tình hình kinh tế - tài chính của Việt Nam nói chung và của các khu vực tài chính nói riêng trong năm 2016; phân tích khuôn khổ chính sách tài chính và dự báo triển vọng kinh tế - tài chính Việt Nam trong năm 2017; đồng thời cung cấp số liệu, thông tin kinh tế - tài chính một cách có hệ thống. Đây là đề tài có giá trị thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế - tài chính thế giới diễn biến phức tạp và hội nhập ngày càng sâu rộng.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá tình hình kinh tế - tài chính Việt Nam năm 2016 và dự báo, triển vọng năm 2017. Do đó, để đạt được mục tiêu này, đề tài đi sâu phân tích một số nội dung cụ thể sau:

(i) Nghiên cứu, đánh giá tình hình kinh tế Việt Nam năm 2016 (tăng trưởng, lạm phát, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, cán cân thương mại, đầu tư, môi trường kinh doanh…) trong bối cảnh kinh tế thế giới.

(ii) Nhận định, phân tích, đánh giá về tình hình kinh tế - tài chính của Việt Nam năm 2016 trên các khía cạnh như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, thị trường tài chính và bất động sản, tài chính doanh nghiệp...

(iii) Đưa ra các dự báo và triển vọng kinh tế - tài chính Việt Nam năm 2017.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Tình hình kinh tế - tài chính.

Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình kinh tế - tài chính Việt Nam năm 2016 và dự báo 2017.

4. Kết quả nghiên cứu

(1) Đề tài đã mô phỏng được bức tranh tổng quan về bối cảnh kinh tế thế giới năm 2016 bằng việc đưa ra các số liệu, phân tích xác thực, chi tiết về tình hình tăng trưởng kinh tế, đầu tư và việc làm, thương mại và giá hàng hóa, thị trường tài chính - tiền tệ toàn cầu. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu kém vững chắc, nhiều nước đã tiến hành điều chỉnh mô hình phát triển kinh tế hướng đến tiêu dùng nội địa nhiều hơn nhằm giảm sự lệ thuộc vào cầu thế giới; hoặc điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô nhằm duy trì và hỗ trợ cho sự phát triển ổn định của kinh tế trong nước. Xu hướng chung vẫn là thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua việc cắt giảm hoặc duy trì lãi suất (Nhật Bản, In-đô-nê-xi-a), tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp (Trung Quốc); trong khi đó, đối với chính sách tài khóa, nhiều nước lại cắt giảm thuế, cắt giảm chi tiêu hay áp dụng các gói kích thích kinh tế (Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Nga, In-đô-nê-xi-a…).

(2) Nhóm nghiên cứu đã nhận diện khá đầy đủ về thực trạng tình hình kinh tế - tài chính Việt Nam năm 2016 trên cơ sở phân tích, đánh giá dựa trên số liệu tổng hợp từ các nguồn chính thống, lập luận và dẫn giải khoa học. Qua đó, nội dung của đề tài đã phản ánh khá đầy đủ về những kết quả đạt được, cũng như hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của các hạn chế đó. Đơn cử như, (i) Về tăng trưởng, lạm phát: Năm 2016, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, song tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu đề ra do nhiều nguyên nhân ở cả trong và ngoài nước, khách quan và chủ quan. Tăng trưởng kinh tế diễn ra không đồng đều ở các khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; (ii) Đầu tư: Vốn đầu tư toàn xã hội vượt mục tiêu của Quốc hội (33% GDP so với 31% GDP), nhưng cơ cấu đầu tư chưa có sự chuyển biến tích cực, đầu tư của khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng cao, hiệu quả còn hạn chế; (iii) Việc làm: Tỷ lệ thất nghiệp vẫn nằm trong mục tiêu đề ra của Quốc hội, nhưng tình trạng thất nghiệp chung của cả nước có xu hướng tăng; (iv) Thương mại: Tăng trưởng thương mại toàn cầu chậm lại, nhưng thương mại Việt Nam năm 2016 vẫn đạt mức thặng dư lớn nhất từ trước tới nay (2,5 tỷ USD); (v) Tài chính Việt Nam: Thu chi ngân sách đảm bảo cân đối, tuy nhiên các vấn đề nội tại của tài chính nhà nước chưa được giải quyết, tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn về an ninh tài chính; (vi) Tài chính doanh nghiệp: Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, phần lớn đều khả quan. Huy động các nguồn lực đầu vào (vốn, đất đai, lao động) cho sản xuất; kết quả kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của các doanh nghiệp ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, do đặc điểm của mỗi thành phần kinh tế nên mức độ cải thiện của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế là không đồng nhất, doanh nghiệp FDI luôn dẫn đầu trong việc tận dụng và nắm bắt cơ hội để cải thiện tình hình hoạt động kinh doanh; (vii) Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam có nhiều tín hiệu tích cực và tăng trưởng ổn định trong năm 2016 với mặt bằng lãi suất ít biến động, tỷ giá ổn định, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm tăng trưởng khả quan. Mặc dù vậy, một số khó khăn, thách thức vẫn còn, như công cụ trần lãi suất tiếp tục được áp dụng, thị trường chứng khoán chưa thu hút được các quỹ đầu tư lớn trên toàn cầu, quy mô thị trường trái phiếu còn hạn chế, thanh khoản thấp… Kết quả này của đề tài là tiền đề quan trọng, giúp các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách có những phương thức giải quyết hiệu quả một số hạn chế mà đề tài đã chỉ ra.

(3) Đề tài cũng đã đề cấp đến các thể chế chính sách kinh tế - tài chính thông qua các phân tích, đánh giá có thực chứng số liệu, kết quả cụ thể; qua đó cho thấy những mặt được, cũng như một số nội dung còn bất hợp lý, chưa phù hợp của chính sách. Hầu hết các chính sách kinh tế - tài chính tiếp tục được hoàn thiện nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh; đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng hướng đến nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững theo định hướng kinh tế thị trường. Khuôn khổ chính sách tài chính đã được hoàn thiện trên nhiều phương diện (chính sách tài chính - ngân sách nhà nước, chính sách tài chính doanh nghiệp, chính sách tiền tệ và chính sách hỗ trợ thị trường tài chính...). Tuy nhiên, trên thực tế chính sách cũng còn còn một số bấp cập, như: Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế không đạt kế hoạch, việc thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế và tình trạng chi vượt dự toán dẫn đến thâm hụt ngân sách và nợ công ngày càng cao; một số chính sách liên quan đến doanh nghiệp được ban hành còn thiếu tính đồng bộ, chưa đáp ứng nhu cầu trong bối cảnh kinh tế mới…

(4) Trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình kinh tế - tài chính Viêt Nam; cơ chế, chính sách triển khai và được ban hành mới trong năm 2016, đề tài đã đưa ra các dự báo và triển vọng về tình hình kinh tế - tài chính Việt Nam năm 2017. Để giảm thiểu những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong năm 2017, đồng thời đạt được các mục tiêu về kinh tế, tài chính - ngân sách, cải thiện môi trường sản xuất - kinh doanh cho doanh nghiệp và ổn định thị trường tài chính - tiền tệ, đề tài đã đưa ra một số đề xuất giải pháp trọng tâm cần thực hiện trong thời gian tới, bao gồm: (i) Ưu tiên nâng cao chất lượng tăng trưởng, huy động nguồn lực tài chính, đặc biệt là vàng và ngoại hối từ nhân dân thông qua các kênh huy động phù hợp, hiệu quả; (ii) Quyết liệt thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách liên quan tới thu, chi ngân sách nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và thị trường tài chính, đảm bảo tính linh hoạt, phù hợp với bối cảnh và điều kiện kinh tế trong nước; (iii) Loại bỏ các rào cản đối với việc tiếp cận môi trường kinh doanh, đầu tư và nguồn vốn; (iv) Sửa đổi, hoàn thiện, đồng bộ hệ thống pháp luật tài chính; (v) Tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước.