- Đơn vị chủ trì: Ban Chính sách tài chính công
- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Phạm Thị Phương Hoa
- Năm giao nhiệm vụ: 2017 Mã số: 2017-13
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Ngày 25/01/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-TTg về việc đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, trong đó nêu rõ định hướng phát triển nhà ở xã hội đảm bảo an sinh xã hội cho người dân thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng giai đoạn 2016 - 2020: “Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên”. Việc xây dựng nhà ở xã hội cho người dân là cần thiết, đồng thời gắn kết với phát triển nhà ở xã hội là vấn đề nguồn lực. Nhà nước không thể đứng ra với vai trò chủ đạo trong xây dựng phát triển nhà ở xã hội mà chỉ là khuyến khích, thúc đẩy huy động nguồn lực đầu tư khu vực tư nhân và doanh nghiệp vào nhà ở xã hội, đảm bảo nguồn lực phát triển bền vững, giảm gánh nặng ngân sách. Vì vậy, việc thực hiện rà soát, đánh giá các chính sách tài chính thực hiện phát triển nhà ở xã hội thời gian qua là một vấn đề cần thiết, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả xây dựng nhà ở xã hội, đảm bảo Chiến lược nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chính sách tài chính đối với nhà ở xã hội, kinh nghiệm quốc tế về áp dụng các chính sách tài chính cho phát triển nhà ở xã hội; phân tích thực trạng chính sách tài chính áp dụng cho nhà ở xã hội tại Việt Nam hiện nay, nhận diện những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó; từ đó đưa ra một số khuyến nghị phù hợp với Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách tài chính, nhà ở xã hội.
Phạm vi nghiên cứu: Chính sách tài chính cho phát triển nhà ở xã hội tại Việt Nam, tập trung chủ yếu vào đối tượng nhà ở xã hội cho công nhân các khu công nghiệp, nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp tại các khu vực đô thị.
4. Kết quả nghiên cứu
(1) Đề tài đã hệ thống hóa được hệ thống chính sách tài chính đối với nhà ở xã hội ở hai phía cung - cầu. Các chính sách hỗ trợ về cung bao gồm: Hỗ trợ về đất, đầu tư cơ sở hạ tầng, tiện ích liên quan; ưu đãi về vốn vay thương mại; bảo lãnh khoản vay thương mại; ưu đãi về thuế như ưu đãi tiền sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài sản… Chính sách hỗ trợ về cầu, bao gồm: Trợ cấp nhà ở, hỗ trợ trực tiếp từ nhà nước; hỗ trợ lãi suất và ưu đãi khoản vay; ưu đãi thuế như thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế sử dụng đất… Qua đó đề tài cũng đã phân tích được ưu, nhược điểm của các chính sách.
(2) Trên cơ sở lý luận hệ thống các chính sách tài chính đối với nhà ở xã hội, đề tài đưa ra kinh nghiệm thực tế của các nước trong việc sử dụng các chính sách tài chính hỗ trợ, thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội cả trên giác độ các quy định pháp lý, chính sách ưu đãi và một số chính sách riêng cho nhà ở xã hội… Đề tài cũng đúc rút được một số bài học kinh nghiệm liên quan như: (i) Khi thiết kế chính sách hỗ trợ nhà ở nên xem xét sử dụng kết hợp cả hai cách tiếp cận bên cung và bên cầu; (ii) Việc xem xét sử dụng hình thức hỗ trợ cụ thể nào (lãi suất, thuế, tiết kiệm, bảo lãnh, hỗ trợ trực tiếp, hay hỗ trợ qua ngân hàng nhà...) được xác định dựa trên các tính toán về chi phí và lợi ích đem lại, đồng thời tùy thuộc vào bối cảnh cũng như các mục tiêu ưu tiên của Chính phủ trong từng thời kỳ, đồng thời cần phải có cơ chế giám sát tốt, cơ chế vận hành hiệu quả, các tiêu chí quy định rõ ràng và trong nhiều trường hợp cần có sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; (iii) Cân nhắc trong việc thực hiện hình thành quỹ tiết kiệm nhà ở cho người thu nhập thấp; (iv) Cần có quy định cụ thể về các tiêu chí để được nhận hỗ trợ thuê nhà, mua nhà ở xã hội và tiêu chuẩn xây dựng nhà ở phù hợp với điều kiện nguồn lực của người có nhu cầu nhà ở xã hội.
(3) Đề tài đã phân tích được thực trạng chính sách tài chính đối với nhà ở xã hội tại Việt Nam giai đoạn 2009 - 2013 trên cả hai phương diện bên cung và bên cầu nhà ở. Trên cơ sở đó, đề tài cũng đưa ra được những hạn chế đối với nguồn lực tài chính cho nhà ở xã hội sau khi đã được khuyến khích động viên như: (i) Lượng cung nhà ở mới chỉ đáp ứng khiêm tốn mục tiêu phát triển nhà ở giai đoạn 2011 - 2015 cũng như lượng cầu về nhà ở xã hội; (ii) Người thu nhập thấp vẫn khó tiếp cận được với nguồn cung nhà ở xã hội, đồng thời, nguồn lực ưu đãi vẫn chưa đảm bảo khả năng thực hiện xây dựng, sửa chữa nhà ở của người dân; (iii) Hiệu quả của sử dụng nguồn lực cho các dự án nhà ở xã hội còn hạn chế: Tiến độ các dự án nhà ở xã hội còn chậm, quy hoạch về nhà ở xã hội chưa thực sự phù hợp với người dân, gây thất thoát lãng phí nguồn lực đầu tư. Nghiên cứu cũng chỉ ra các nguyên nhân của các hạn chế từ vấn đề ngân sách đến các vướng mắc trong quy định chính sách ưu đãi.
(4) Từ những phân tích nguyên nhân thực trạng chính sách tài chính phát triển nhà ở xã hội, đề tài cũng chỉ ra một số hàm ý chính sách tăng khả năng thu hút nguồn lực đầu tư cho nhà ở xã hội như: (i) Rà soát, điều chỉnh lại chính sách khuyến khích ưu đãi phát triển nhà ở đối với người dân (ví dụ như chính sách thuế giá trị gia tăng...); (ii) Tăng cường quản lý quỹ đất, rà soát lại quỹ đất trên địa bàn, xây dựng quy hoạch có trọng tâm, trọng điểm, thứ tự ưu tiên và có sự gắn kết với hệ thống tiện ích đô thị; (iii) Rà soát, đánh giá lại các dự án chậm tiến độ, bỏ hoang, tập trung giải quyết dứt điểm các dự án này, giảm thất thoát, lãng phí nguồn lực; (iv) Hoàn thiện một số quy định và khuyến khích điều chỉnh danh mục đầu tư nhà ở xã hội của các nhà đầu tư chuyển hướng vào phân khúc nhà ở vừa túi tiền và nhà ở giá rẻ, diện tích nhỏ cho người thu nhập thấp; (v) Hoàn thiện xây dựng cơ chế hợp tác công - tư trong cung cấp nhà ở xã hội, đặc biệt là nhà ở xã hội cho công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất.