- Đơn vị chủ trì: Ban Kinh tế vĩ mô và Dự báo
- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Nguyễn Thúy Quỳnh
- Năm giao nhiệm vụ: 2017 Mã số: 2017-06
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Tăng trưởng sản lượng cao và bền vững cùng với lạm phát thấp là mục tiêu chính của chính sách kinh tế vĩ mô. Không có gì là đáng ngạc nhiên khi câu hỏi về sự tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng vẫn luôn là một chủ đề thu hút được nhiều sự quan tâm và tranh luận của các nhà nghiên cứu. Mặc dù, kết luận về mối quan hệ chính xác giữa hai biến này vẫn còn gây nhiều tranh cãi, những cuộc nghiên cứu chuyên sâu đã đưa ra một số kết quả quan trọng và đạt được sự đồng thuận tương đối lớn. Cụ thể, trong trung và dài hạn, lạm phát được cho rằng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
Nếu lạm phát được cho là có tác động tiêu cực đến tăng trưởng, vậy thì các nhà hoạch định chính sách nên hướng tới một tỷ lệ lạm phát thấp. Nhưng lạm phát nên thấp ở mức độ nào? Liệu lạm phát mục tiêu nên thấp ở mức 10%, 5%, hay 0%? Tóm lại, lạm phát ở mức độ nào thì mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng sẽ trở thành tiêu cực?
Có rất nhiều quan điểm lý thuyết của các trường phái khác nhau, mỗi trường phái lại có một quan điểm riêng, mô hình riêng để chứng minh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng nhưng quan điểm chung của các trường phái có thể nhận thấy là mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không phải là mối quan hệ một chiều mà là sự tác động qua lại. Trong ngắn hạn, khi lạm phát còn ở mức thấp, lạm phát và tăng trưởng thường có mối quan hệ cùng chiều. Nghĩa là nếu muốn tăng trưởng đạt tốc độ cao hơn thì phải chấp nhận tăng lạm phát. Tuy nhiên, mối quan hệ này lại không tồn tại mãi mãi mà đến một lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao thì sẽ ảnh hưởng làm giảm tăng trưởng. Trong dài hạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác động đến tăng trưởng nữa mà lúc này, lạm phát là hậu quả của việc cung tiền quá mức vào nền kinh tế.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Xác định ngưỡng lạm phát hợp lý đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam" là cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu tổng quan lý thuyết về các vấn đề liên quan đến lạm phát; Nghiên cứu tổng quan các trường phái lý thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng; đồng thời đưa ra một số nhận xét đối với một số nghiên cứu thực nghiệm (trong và ngoài nước) liên quan đến xác định ngưỡng tác động của lạm phát đến tăng trưởng; Từ đó nghiên cứu, ước lượng ngưỡng lạm phát hợp lý đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chủ yếu đến tăng trưởng kinh tế cũng như lạm phát của Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1996 đến năm 2016.
4. Kết quả nghiên cứu
(1) Đề tài đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận về ngưỡng lạm phát - tác động của lạm phát đến tăng trưởng trong các lý thuyết kinh tế;
Lý thuyết tăng trưởng cổ điển: Được đưa ra bởi Adam Smith. Lý thuyết tăng trưởng cổ điển không có sự giải thích trực tiếp giữa lạm phát và tác động của thuế lạm phát (inflation tax) đến lợi nhuận cũng như sản lượng đầu ra. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai biến số này - lạm phát và sản lượng - được cho là có tác động ngược chiều bởi việc làm giảm mức lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như tiết kiệm thông qua chi phí tiền lương cao hơn.
Lý thuyết Keynesian: Trong mô hình của Keynes, có sự đánh đổi trong ngắn hạn giữa lạm phát và tăng trưởng sản lượng, đồng nghĩa với việc trong ngắn hạn, muốn sản lượng tăng cao thì phải chấp nhận lạm phát tăng. Tuy nhiên, đến một lúc nào đó, trong dài hạn, thì lạm phát và tăng trưởng sẽ có mối quan hệ ngược chiều; khi đó, lạm phát vẫn có xu hướng tăng nhưng sản lượng cũng không thay đổi hay thậm chí là có xu hướng giảm. Lúc này, để lạm phát giảm, nền kinh tế phải chấp nhận có một khoảng thời gian sản lượng thấp hơn mức sản lượng tiềm năng. Theo mô hình của Keynes, để giữ được mức lạm phát ổn định tại mức π thì sản lượng phải đạt được mức sản lượng tiềm năng Y.
Trường phái trọng tiền: Theo quan điểm của trường phái trọng tiền, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ giá cả không thực sự có tác động đến tăng trưởng. Nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Mô hình tăng trưởng tân cổ điển: Mối quan hệ của lạm phát và tăng trưởng kinh tế xét trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển không phải chỉ có một mối quan hệ duy nhất: Có những nhà kinh tế học thuộc trường phái này cho rằng lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ cùng chiều, nhưng cũng có người cho rằng đó là mối quan hệ ngược chiều, hay thậm chí có những người lập luận lạm phát và tăng trưởng không có mối quan hệ gì cả.
Sau khi xem xét nhiều quan điểm lý thuyết của các trường phái khác nhau, có thể thấy, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không phải là mối quan hệ một chiều mà là sự tác động qua lại. Trong ngắn hạn, khi lạm phát còn ở mức thấp, lạm phát và tăng trưởng thường có mối quan hệ cùng chiều. Nghĩa là nếu muốn tăng trưởng đạt tốc độ cao hơn thì phải chấp nhận tăng lạm phát. Tuy nhiên, mối quan hệ này không tồn tại mãi mãi mà đến một lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ ảnh hưởng làm giảm tăng trưởng. Trong dài hạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác động đến tăng trưởng nữa mà lúc này, lạm phát là hậu quả của việc cung tiền quá mức vào nền kinh tế.
(2) Đề tài đã đưa ra các nghiên cứu thực nghiệm xác định ngưỡng lạm phát lý tưởng
Nghiên cứu của Sarel năm 1995 về “Tác động phí tuyến tính của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế”. Để ước lượng ngưỡng lạm phát trong nghiên cứu của mình, về cơ bản, Sarel chạy một loạt các hồi quy OLS với các giá trị ngưỡng π* khác nhau và tìm giá trị ngưỡng của lạm phát tại lần hồi quy tối đa hóa hệ số xác định R2 (R-squared) hoặc tối thiểu chỉ số sai số bình phương trung bình (Root Mean Square Error – RMSE). Phương trình Sarel được xác định như sau:
nếu π ≤ π*
nếu π > π*
Trong đó,
: tăng trưởng kinh tế; π: tỷ lệ lạm phát; π*: ngưỡng lạm phát; X: vec-tơ của tất cả các biến giải thích khác;
: vec-tơ tham số tương ứng;
: sai số ngẫu nhiên, với E[
] = 0 và var[
] =
. Hệ số β2 chỉ ra sự khác biệt trong các tác động của lạm phát đối với tăng trưởng giữa hai phía ngưỡng. Sarel sử dụng kiểm định t kiểm định β2 để kiểm tra xem ngưỡng tìm được có ý nghĩa thống kê hay không. Khi lạm phát nhỏ hơn hoặc bằng với ngưỡng (π ≤ π*) thì tác động của lạm phát đến tăng trưởng được thể hiện qua hệ số β1. Khi lạm phát cao hơn ngưỡng (π > π*) thì tổng (β1 + β2) sẽ đại diện cho các tác động của lạm phát đến tăng trưởng.
Các biến được sử dụng trong mô hình của Sarel là dân số, GDP, CPI, thương mại, tỷ giá, chi tiêu chính phủ và đầu tư. Sử dụng số liệu của 87 quốc gia, cho quãng thời gian từ năm 1970-1990, Sarel thấy rằng 8% là ngưỡng thích hợp của lạm phát. Dưới ngưỡng này lạm phát có tác động tích cực đến tăng trưởng, mặc dù mức tác động này là không đáng kể. Trong khi đó, nếu lạm phát cao hơn mức 8% sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu của Khan và Senhadji năm 2001 về “Ngưỡng tác động trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng”. Để kiểm định sự tồn tại của tác động ngưỡng lạm phát đến tăng trưởng, Khan và Senhadji (2001) sử dụng phương pháp kinh tế lượng để ước tính ngưỡng mà trước đó đã được phát triển bởi Chan và Tsay (1998) và E. Hansen (1999) cho 140 quốc gia trong khoảng thời gian từ 1960-1998 với hai biến chủ yếu là tốc độ tang trưởng GDP - được tính theo đồng nội tệ của mỗi quốc gia, theo giá so sánh năm 1987, và lạm phát - được tính bằng phần trăm thay đổi của chỉ số CPI. Mô hình cụ thể như sau:
(dùng cho quốc gia i trong thời gian t)
Trong đó,
: Tốc độ tăng trưởng GDP thực;
là tác động cố định;
là tác động thời gian;
là tỷ lệ lạm phát;
là ngưỡng lạm phát;
là biến giả, nhận giá trị 1 khi
và nhận giá trị 0 khi
; X là vec-tơ các biến giải thích, bao gồm: tổng vốn đầu tư trên GDP, tốc độ tăng trưởng dân số, logarit của thu nhập bình quân đầu người ban đầu, tốc độ tăng trưởng của tỷ giá thương mại và độ lệch chuẩn của tỷ giá thương mại;
là sai số ngẫu nhiên
Theo mô hình của Khan và Senhadji, ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng GDP được biểu thị bởi
trong thời gian mà lạm phát là thấp hơn hoặc bằng ngưỡng và
trong thời gian tỷ lệ lạm phát cao hơn ngưỡng. Phương trình cơ bản của Khan và Senhadji được ước lượng lặp lại với các giá trị khác nhau của
. Phương pháp được đề xuất ước lượng ở đây là phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS, ngưỡng lạm phát được lựa chọn sẽ là giá trị
tương ứng với ước lượng cho ra giá trị RSS nhỏ nhất.
Kết quả thực nghiệm cho thấy có sự tồn tại của một ngưỡng mà ngoài ngưỡng này, lạm phát gây ra tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Ngược lại, dưới ngưỡng lạm phát không có tác động hoặc tác động tích cực đến tăng trưởng. Kết quả cũng chỉ ra rằng ở các nước phát triển, ngưỡng ra thấp hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển (1%-3% là ngưỡng lạm phát của các nước phát triển, so với mức 11%-12% của các nước đang phát triển).
Tại Việt Nam, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng cũng là đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu. Cùng quan điểm với các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả nước ngoài, phần lớn những nghiên cứu thực nghiệm của Việt Nam đều công nhận tồn tại một mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng.
Bằng cách nghiên cứu định tính trong giai đoạn 1987 - 2010, nghiên cứu của PGS. TS. Trần Hoàng Ngân và cộng sự (2010) đã chỉ ra rằng trong dài hạn, lạm phát tác động tiêu cực yếu đến tăng trưởng. Các tác giả kết luận ngưỡng lạm phát ở Việt Nam nên nằm trong khoảng từ 5% - 6%.
Nghiên cứu của TS. Nguyễn Anh Phong (2017) lại đưa ra một ngưỡng tối ưu khác cho mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Kết quả cho thấy, tồn tại quan hệ ngưỡng giữa tăng trưởng và lạm phát, với ngưỡng lạm phát tối ưu là 3,22%/năm. Cụ thể, nếu mức lạm phát được giữ ở mức dưới ngưỡng này sẽ kích thích cho tăng trưởng kinh tế; với mức lạm phát trên 3,22%/năm sẽ tạo hiệu ứng kiềm chế tăng trưởng, tuy nhiên cũng ở mức thấp.
Đối với việc "Xác định điểm ngưỡng trong quan hệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia ASEAN" của Lê Thanh Tùng (2015), tác giả đã chỉ ra rằng (i) Tồn tại điểm ngưỡng là k = 4% mà tại đó quan hệ lạm phát và tăng trưởng tại các quốc gia ASEAN có sự đổi dấu từ dương sang âm; (ii) Nếu tỷ lệ lạm phát trung bình £ 4% thì lạm phát tăng 1% tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng trung bình của ASEAN tăng 0,49%; ngược lại, tỷ lệ lạm phát trung bình > 4% thì lạm phát tăng 1% tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng trung bình của ASEAN giảm 0,05%. Áp dụng cụ thể vào trường hợp của Việt Nam, theo tác giả, trong một vài năm tới, các cơ quan chức năng nên ấn định tỷ lệ lạm phát mục của cả nền kinh tế £ 7% bởi số liệu thống kê về nền kinh tế Việt Nam cho thấy các thời điểm lạm phát tăng vượt 7%/năm thì đà tăng trưởng kinh tế sẽ không bền vững, tỷ lệ tăng trưởng đa phần đều sụt giảm trong các năm tiếp theo.
(3) Đề tài đề xuất xác định ngưỡng lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Sử dụng hàm bậc hai để ước lượng ngưỡng tác động của lạm phát đến tăng trưởng của Việt Nam, kết quả ước lượng cho thấy ngưỡng lạm phát tối ưu của Việt Nam là khoảng 6,5%. Theo đó, nếu lạm phát dưới mức 6,5% sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng và ngược lại, nếu lạm phát tăng cao hơn mức 6,5% thì sẽ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
Thực hiện ước lượng điểm ngưỡng trong mối quan hệ lạm phát và tăng trưởng theo mô hình của Khan và Sanhadji (2001), tác giả ước lượng mô hình (1) và tính toán các hệ số xác định R2 tương ứng với các giá trị π chạy từ 1% đến 19% vì lạm phát của Việt Nam chủ yếu biến động trong khoảng này. Tiến hành các thủ tục xác định ngưỡng lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 1996 - 2016, tác giả tìm được ngưỡng lạm phát có ý nghĩa thống kê tại mức π = 5%. Khi lạm phát dưới ngưỡng 5%, tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế là không đáng kể do hệ số của biến CPI không có ý nghĩa thống kê. Với các giá trị lạm phát trên ngưỡng 5%, hệ số góc của biến ngưỡng lạm phát DU*(CPIt – π) đạt -2,1536 và giá trị p-value = 0,0479 < 0,05 chứng tỏ khi lạm phát cao hơn ngưỡng này sẽ gây tác động tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng của nền kinh tế.
Kết hợp kết quả của cả hai mô hình: (i) Mô hình mô phỏng sự phụ thuộc của tăng trưởng vào lạm phát ở Việt Nam dưới dạng hàm bậc hai (parabol) giống như nghiên cứu của ThS. Phan Anh và Nguyễn Khương Duy và (ii) mô hình kinh tế lượng về xác định điểm ngưỡng trong mối quan hệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế được xây dựng bởi Khan và Sanhadji (2001), tác giả cho rằng ngưỡng lạm phát tối ưu cho Việt Nam nằm trong khoảng từ 5% đến 6,5%. Các nhà hoạch định chính sách có thể tham khảo khoảng ngưỡng này để đưa ra những chính sách để có thể vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn giữ lạm phát ở mức hợp lý.