Chính sách thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Chính sách thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam 17/10/2017 09:19:00 18377

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Chính sách thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

17/10/2017 09:19:00

Thuế giá trị gia tăng (GTGT) ở Việt Nam là thuế dựa trên tiêu dùng với phương pháp sử dụng chủ yếu là khấu trừ, cùng với nguyên tắc đánh thuế GTGT theo nơi đến. Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Giá trị tăng thêm có thể được xác định theo nhiều phương thức tính khác nhau nhưng nguyên lý chung là bằng giá trị sản phẩm đầu ra (giá bán/doanh thu) trừ giá trị sản phẩm đầu vào (giá mua/chi phí). Điểm đặc biệt là thuế GTGT được tiếp cận theo quá trình nên yếu tố đầu vào và đầu ra đều quan trọng. Sản xuất, lưu thông và tiêu dùng là những mắt xích gắn kết với nhau rất chặt chẽ (liên quan đến khấu trừ và hoàn thuế).

Tầm quan trọng của thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Luật Thuế GTGT đã đi vào cuộc sống và có tác động tích cực trên một số khía cạnh như khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam hội nhập kinh tế; cải cách thủ tục hành chính và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN).

Luật Thuế GTGT hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định mức thuế suất thuế GTGT phổ thông là 10% đối với hầu hết các hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên theo quy định, một số hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT (bao gồm sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành sản phẩm khác…) hoặc hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng áp dụng mức thuế suất 5% (bao gồm nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt, quặng để sản xuất phân bón; dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh, mương, ao hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp; thiết bị, dụng cụ y tế; giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập...).

Thông qua việc quy định rõ các điều kiện khấu trừ và hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa trong nước và xuất khẩu, Luật Thuế GTGT tạo điều kiện cho cơ quan thuế và cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra việc kê khai tính thuế, nộp thuế, giám sát hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp; đòi hỏi doanh nghiệp thực hiện tốt hơn việc mua bán hàng hóa, dịch vụ phải có hóa đơn, chứng từ và khuyến khích việc thanh toán không dùng tiền mặt.

Đặc biệt, từ ngày 01/7/2016, Luật số 106/2016/QH13 quy định không hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật Hải quan, giúp ngăn chặn tình trạng buôn lậu, chống gian lận và gây thất thu cho NSNN; không hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư không góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký, dự án đầu tư ngành nghề kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh hoặc không duy trì đủ điều kiện trong quá trình hoạt động, góp phần bảo đảm minh bạch về vốn, lành mạnh hóa các hoạt động sản xuất - kinh doanh và bảo đảm lợi ích của các bên liên quan, đồng thời đảm bảo đồng bộ với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, qua đó góp phần quản lý chặt chẽ, lành mạnh hóa các hoạt động kinh tế cũng như đơn giản, minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, đẩy mạnh cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế, phù hợp với xu thế cải cách hệ thống thuế.

Đối với thu NSNN, thuế GTGT góp phần quan trọng nhằm ổn định, đảm bảo tỷ lệ động viên hợp lý, đáp ứng nguồn tài chính cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, do tỷ lệ nợ công có xu hướng tăng cao nên sự ổn định, hiệu suất thu tốt của thuế GTGT góp phần đảm bảo cân đối cơ bản cho thu, chi NSNN.

Sự cần thiết phải tiếp tục điều chỉnh chính sách thuế giá trị gia tăng

Tại Việt Nam, thuế GTGT được nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách thuế bước 1 (năm 1990), áp dụng thử nghiệm năm 1993 ở 11 đơn vị (ngành đường, dệt, xi măng). Ngày 10/5/1997, Luật Thuế GTGT số 57/1997/L-CTN lần đầu tiên được ban hành và chính thức áp dụng từ ngày 01/01/1999, thay cho thuế doanh thu. Sau nhiều lần sửa đổi, ngày 06/3/2008, Luật Thuế GTGT số 13/2008/QH ra đời thay thế cho Luật Thuế GTGT số 57/1997/L-CTN đã đánh dấu sự phát triển mới về chính sách thuế GTGT của nước ta. Qua gần 9 năm thực hiện, Luật Thuế GTGT số 13/2008/QH đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần (vào các năm 2013, 2014 và 2016) để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Xu hướng các nước

Thuế GTGT ngày càng trở thành một sắc thuế quan trọng và phổ biến trên thế giới. Nếu tính cả các sắc thuế có tính chất tương tự như thuế GTGT là thuế tiêu dùng, thuế hàng hóa, dịch vụ, thì số quốc gia áp dụng thuế GTGT/thuế hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh từ khoảng 140 nước (năm 2004) lên 160 nước (năm 2014) và 166 nước (năm 2016). Cùng với đó, số thu từ thuế GTGT ngày càng đóng vai trò quan trọng trong thu ngân sách của nhiều quốc gia. Trong giai đoạn 1985 - 2009, tỷ trọng nguồn thu từ thuế GTGT trong tổng thu từ thuế trên toàn cầu tăng từ 11% lên 19%, đưa sắc thuế này trở thành nguồn thu thuế quan trọng thứ 3 sau các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội và thuế thu nhập cá nhân. Năm 2014, thu từ thuế GTGT ở Trung Quốc tương đương khoảng 5,5% GDP, ở Nga khoảng 6,77% GDP. Tỷ lệ động viên từ thuế GTGT ở các nước trong khu vực Liên minh châu Âu (EU) đặc biệt cao (Đan Mạch là 9,9% GDP, Phần Lan là 8,5% GDP).

Trong những năm gần đây, thuế GTGT đã trở thành một công cụ chính sách chủ yếu của các nước trong quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm củng cố tài khóa sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, đặc biệt đối với yêu cầu tăng cường nguồn thu cho NSNN. Gần đây, các nước có xu hướng chuyển từ thuế trực thu sang thuế gián thu, trong đó đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng cường vai trò huy động của nguồn thu từ thuế GTGT.

Cùng với việc thực hiện giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp để khuyến khích đầu tư, kinh doanh thì xu hướng chung của các nước là tăng thuế suất phổ thông và mở rộng cơ sở thuế GTGT nhằm bảo đảm nguồn thu cho ngân sách. Trong giai đoạn 2009 - 2014, có khoảng hơn 20 quốc gia, đặc biệt là các quốc gia thuộc EU, thực hiện điều chỉnh tăng thuế suất phổ thông thuế GTGT. Hiện nay, mức thuế suất phổ thông thuế GTGT bình quân ở các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) vào khoảng 19%, các nước thuộc khu vực EU khoảng 22%. Tại khu vực châu Á, Nhật Bản cũng đã điều chỉnh mức thuế suất thuế tiêu dùng từ 5% lên 8% nhằm tăng nguồn thu mỗi năm (khoảng 8 nghìn tỷ JPY) cho ngân sách quốc gia để góp phần kiểm soát nợ công.

Bối cảnh Việt Nam

Tình hình kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tốc độ phục hồi kinh tế chậm, không đồng đều và tiềm ẩn nhiều rủi ro, rào cản thương mại và chính sách bảo hộ có xu hướng gia tăng. Giá dầu thấp và khó dự báo, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do mở ra nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn. Việt Nam cũng đang phải đối mặt với một số rủi ro tài khóa nhất định, đặc biệt là khi xét trong tầm nhìn trung và dài hạn. Đó là tình trạng bội chi ngân sách kéo dài và sự gia tăng liên tục của nợ công.  Ngày 18/11/2016, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, đồng thời Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 09/11/2016 về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, trong đó đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho quá trình cơ cấu lại NSNN những năm tới đây. Việc thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các mục tiêu, nhiệm vụ này có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu đảm bảo an ninh tài chính công.

Do vậy từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới và bối cảnh của Việt Nam cho thấy, để có thể cơ cấu lại NSNN một cách thành công và hiệu quả cần phải có những giải pháp toàn diện, giải quyết đồng bộ được các mặt có liên quan đến nền tài chính công, cụ thể là: Thực hiện cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả chi NSNN theo một lộ trình tổng thể, giảm dần quy mô chi thường xuyên, thực hiện giảm bội chi; cải cách hệ thống chính sách thuế để hình thành một hệ thống thuế với cơ cấu phù hợp, trong đó chú trọng phát huy được vai trò của các sắc thuế đang có tiềm năng mở rộng quy mô thu NSNN; chủ động kiểm soát chặt các rủi ro về nợ công, kiên định duy trì các giới hạn về nợ công theo mục tiêu đề ra, đồng thời nâng cao kỷ luật tài khóa, tăng cường trách nhiệm giải trình. Vì vậy, việc sửa đổi Luật Thuế GTGT là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tài chính công hiện nay.

Thu Hồng