Tăng vốn để tăng quy mô hoạt động ngân hàng

Tăng vốn để tăng quy mô hoạt động ngân hàng 06/09/2017 15:03:00 4583

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Tăng vốn để tăng quy mô hoạt động ngân hàng

06/09/2017 15:03:00

Vốn điều lệ là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá quy mô hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM). Mức vốn điều lệ lớn cho phép ngân hàng tăng quy mô tài sản có để mở rộng khả năng huy động vốn trong xã hội, mở rộng đầu tư, mạng lưới hoạt động, đổi mới công nghệ ngân hàng, từ đó có thể áp dụng những thành tựu công nghệ mới nhất nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. Vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế, các quốc gia thường quan tâm đến việc tăng quy mô hoạt động của các NHTM.

Tăng vốn điều lệ là giải pháp chiến lược của ngân hàng

Trung Quốc là một điển hình trong việc thực hiện chiến lược tăng quy mô vốn ngân hàng. Hiện nay Trung Quốc có 4 NHTM có quy mô tài sản đứng đầu thế giới như: Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC) - ngân hàng lớn nhất thế giới với tổng giá trị tài sản 3.620 tỷ USD; Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (CCB) với tổng giá trị tài sản khoảng 2.940 tỷ USD; Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc (ABC) với 2.800 tỷ USD và Ngân hàng Trung Quốc (BOC) với 2.630 tỷ USD. Bên cạnh đó, các NHTM nước ngoài và ngân hàng đa quốc gia tại Trung Quốc như HSBC (Anh); JPMorgan Chase, BOA (Hoa Kỳ); BNP Paribas, Credit Agricole (Pháp); Mitsubishi UFJ Financial (Nhật Bản)… cũng có quy mô tài sản lớn.

Tại hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, các NHTM nhà nước và Nhà nước có cổ phần chi phối là nhóm ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất. Tính đến tháng 5/2017, tổng giá trị tài sản của các NHTM nhà nước là 4.076.004 tỷ đồng, tương đương khoảng 178 tỷ USD, với vốn điều lệ gần 11 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với các NHTM lớn trên thế giới. Để có thể hội nhập tốt và mở rộng thị trường quốc tế, bên cạnh việc không ngừng nâng cao năng lực quản trị điều hành, chất lượng dịch vụ, giảm nợ xấu… thì việc tăng quy mô vốn điều lệ, quy mô tài sản của các NHTM nhà nước là cần thiết, do các ngân hàng này đóng vai trò chủ lực về quy mô, thị phần, khả năng điều tiết thị trường, đồng thời đi đầu trong việc áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại…

Việc tăng vốn điều lệ cho các NHTM là giải pháp chiến lược quan trọng cho việc tái cơ cấu và phát triển hệ thống NHTM Việt Nam trong những năm tới. Chính vì vậy, tại Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trì, phối hợp cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng phương án tăng vốn điều lệ của các NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ đến năm 2020 (không bao gồm các NHTM Nhà nước mua bắt buộc). Trong đó, việc tập trung tăng vốn cho 3 ngân hàng BIDV, VietinBank và Vietcombank là bước đi thích hợp nhằm tái cơ cấu và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Việc tăng vốn này không chỉ đáp ứng yêu cầu vốn theo chuẩn mực của Basel II, mà còn là điều kiện quan trọng để các ngân hàng mở rộng tầm ảnh hưởng đến khu vực và thế giới.

Áp lực tăng vốn ngày càng cao

Theo thống kê của NHNN, đến ngày 31/12/2016, tổng vốn điều lệ của 35 NHTM là 387.009 tỷ đồng, tăng 55.940 tỷ đồng so với năm 2015, trong đó nhóm 7 NHTM nhà nước là 154.583 tỷ đồng, tăng 17.490 tỷ đồng; nhóm 28 NHTM cổ phần là 232.425 tỷ đồng, tăng 38.449 tỷ đồng so với năm 2015. Năm 2017, có 19/35 ngân hàng công bố kế hoạch tăng vốn điều lệ, với tổng mức tăng thêm là 37.135 tỷ đồng, trong đó có những ngân hàng đặt kế hoạch tăng vốn mạnh như: BIDV tăng 4.445 tỷ đồng; Techcombank tăng 5.000 tỷ đồng; Vietcombank tăng 3.598 tỷ đồng; Ngân hàng Đông Nam Á tăng 3.534 tỷ đồng; VPBank tăng 3.294 tỷ đồng; Ngân hàng Quốc dân tăng 3.000 tỷ đồng và VIB tăng 2.259 tỷ đồng. Phương án tăng vốn chủ yếu thông qua các hình thức quen thuộc như phát hành cổ phiếu để chia cổ tức, phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu và đối tác chiến lược, hoặc kết hợp tất cả các hình thức trên. Cụ thể, BIDV sẽ phát hành 102,6 triệu cổ phiếu cho người lao động (ESOP); 239,3 triệu cổ phiếu trả cổ tức và 102,6 triệu cổ phiếu phát hành riêng lẻ cho nhà đầu tư. Ngoài ra, BIDV còn xem xét phát hành cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời phát hành thêm trái phiếu chuyển đổi để tăng vốn tự có cấp 2.

Các ngân hàng đặt ra kế hoạch tăng vốn điều lệ trong năm 2017 nhằm nâng cao vốn tự có, từ đó cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR) để có thể mở rộng phát triển kinh doanh. Ngoài ra, một số ngân hàng cũng xây dựng kế hoạch tăng vốn cấp 2 thông qua phát hành trái phiếu dài hạn. Trong năm 2016, nhiều ngân hàng thành công với các phiên phát hành trái phiếu dài hạn như ACB, VietinBank, Vietcombank, VPBank, LienVietPostBank và Ngân hàng Quốc dân.

Tuy nhiên, phần lớn những trái phiếu này được mua - bán giữa các ngân hàng. Theo một thống kê của Công ty Chứng khoán VCBS, gần 50% lượng trái phiếu cấp 2 phát hành được bán cho các ngân hàng. Báo cáo tài chính năm 2016 cũng cho thấy điều này khi khoản mục đầu tư trái phiếu do các tổ chức tín dụng khác phát hành của một số ngân hàng đã tăng mạnh. Cụ thể, số liệu chứng khoán nợ do các tổ chức tín dụng khác trong nước phát hành (cuối năm 2016) của Ngân hàng Quân đội tăng 5.133 tỷ đồng, SHB tăng 2.468 tỷ đồng, Vietcombank tăng 4.606 tỷ đồng, VPBank tăng 3.402 tỷ đồng (trong đó có 1.819 tỷ đồng trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh) và của VIB tăng gần 532 tỷ đồng.

Theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (có hiệu lực từ ngày 01/01/2020), phần vốn đầu tư vào trái phiếu đủ điều kiện tính vốn cấp 2 của các ngân hàng khác sẽ bị loại khi tính vốn tự có của tổ chức tín dụng. Do đó, những ngân hàng đang sở hữu lượng trái phiếu cấp 2 của các ngân hàng khác với số lượng lớn thì từ năm 2020, vốn tự có cấp 2 sẽ chịu áp lực suy giảm khi phải loại trừ các khoản đầu tư này. Cũng theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, cách tính hệ số CAR mới gần hơn theo chuẩn Basel II sẽ bắt đầu có hiệu lực từ năm 2020. Bên cạnh việc tỷ lệ CAR theo quy định mới sẽ giảm từ 9% xuống còn 8%, các thông số đầu vào để tính CAR cũng chặt hơn và có xét đến các yếu tố rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động, tạo áp lực lớn lên việc tăng vốn tự có của các NHTM.

Trong khi đó, các ngân hàng nhỏ có vốn điều lệ tương đương với vốn pháp định (3.000 tỷ đồng) chưa đặt ra kế hoạch tăng vốn như: Ngân hàng Bảo Việt (vốn điều lệ thời điểm cuối năm 2016 là 3.150 tỷ đồng), GPBank (3.016 tỷ đồng), Ngân hàng Kiên Long, Ngân hàng Bản Việt và PGBank (3.000 tỷ đồng). Trong bối cảnh hiện nay, việc tăng thêm vốn là “bài toán khó” của các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, như Saigonbank đã có kế hoạch tăng vốn từ 3.080 tỷ đồng lên 4.080 tỷ đồng từ năm 2014 nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được.

Thống kê cho thấy, hiện nay có 4 ngân hàng có vốn điều lệ trên 20.000 tỷ đồng, 9 ngân hàng có vốn điều lệ từ 10.000 - 20.000 tỷ đồng, 12 ngân hàng có vốn điều lệ từ 5.000 - 10.000 tỷ đồng và 10 ngân hàng có vốn điều lệ dưới 5.000 tỷ đồng. NHNN từng đặt ra lộ trình để các NHTM tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng vào năm 2010; 5.000 tỷ đồng vào năm 2012 và 10.000 tỷ đồng vào năm 2015, nhưng do gặp quá nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nên đã hoãn lại. Về cơ bản, một tổ chức tín dụng phải có vốn điều lệ từ 10.000 tỷ đồng trở lên thì năng lực tài chính mới được xem là vững chắc, do đó, dự kiến áp lực tăng vốn của ngành Ngân hàng sẽ còn kéo dài đến năm 2020.

Ngoài ra, đối với những ngân hàng yếu kém, việc tăng vốn để bổ sung vốn điều lệ là cấp thiết. Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng vừa được Quốc hội thông qua cho phép các tổ chức tín dụng bán nợ xấu theo giá thị trường, phần lỗ dù được xem xét phân bổ qua các năm thay vì phân bổ ngay, nhưng vẫn ảnh hưởng mạnh đến lợi nhuận giữ lại, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến vốn tự có của các ngân hàng.

Long Thịnh