ThS. Nguyễn Tiến Thỏa
Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội Thẩm định giá Việt Nam
Công cuộc cải cách cơ chế quản lý nền kinh tế cách đây 30 năm chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà trước hết việc cải cách giá cả được coi có vị trí trung tâm, là khâu đột phá của quá trình “đoạn tuyệt” cơ chế kinh tế cũ để chuyển sang cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, đến nay, đã thành công, góp phần làm nên sự thành công chung của công cuộc đổi mới cơ chế kinh tế. Tuy nhiên, từ năm 2016 trở đi, bước vào giai đoạn phát triển mới của đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII thì nhiều vấn đề về cơ chế quản lý giá, hệ thống giá và việc điều hành giá đã bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết chưa hoàn thiện theo nguyên tắc thị trường đầy đủ cần phải được tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.
1. Sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách giá, hệ thống giá
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu tiếp tục thực hiện mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phấn đấu đến năm 2020, cơ bản nước ta hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo các tiêu chí phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế… đòi hỏi cơ chế chính sách giá và hệ thống giá phải thích ứng với mô hình đó, phải thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế tạo động lực thực hiện thành công mô hình kinh tế trên. Muốn vậy, cơ chế giá, hệ thống giá phải được tiếp tục đổi mới, trước hết để khắc phục những bất cập, những tồn tại không tuân thủ đúng yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế thị trường, gây ra những “méo mó” của giá cả và thị trường, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, cụ thể như:
Giá hàng hóa, dịch vụ của một số ngành chưa thật sự tuân thủ nguyên tắc thị trường; một số loại giá vẫn phải áp dụng chính sách “bù chéo” về giá và doanh thu giữa các nhóm khách hàng; Nhà nước vẫn phải sử dụng ngân sách bao cấp, bảo hộ qua giá ở một số lĩnh vực buộc giá cả phải “gánh”chính sách xã hội, làm nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ công ích trong các mức giá.
Chậm chuyển đổi cơ chế thu phí sang áp dụng cơ chế giá dịch vụ đối với nhiều loại dịch vụ công (nhất là nhóm dịch vụ công cộng và nhóm dịch vụ công ích). Phạm vi bao cấp thông qua các hình thức trợ giá, trợ cấp tài chính cho dịch vụ công còn khá rộng; cơ chế cạnh tranh về giá còn ở mức độ rất thấp, nhất là những dịch vụ công mức độ xã hội hóa còn ít và những dịch vụ chỉ do doanh nghiệp nhà nước cung ứng đang áp dụng chế độ bù giá, trợ cấp. Nhiều loại dịch vụ đang áp dụng mức phí rất thấp, không phản ánh được đầy đủ chi phí dịch vụ và không bảo đảm sự bền vững tài chính dài hạn cần thiết để tạo ra mức độ đầy đủ của dịch vụ, gây khó khăn cho việc chuyển đổi cơ chế tài chính sang phương thức hạch toán, tự chủ tài chính, tự chủ về giá; tạo lực cản đối với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa và thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế… dẫn đến không tạo được động lực để các ngành này phát triển bền vững.
Cơ chế định giá tài sản vô hình chưa hoàn thiện, làm cho giá cả không phản ánh đúng giá trị thị trường, không phản ánh đầy đủ giá trị thương hiệu, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp và của sản phẩm, thiếu mối tương quan hợp lý với giá thị trường thế giới. Cơ chế kiểm soát giá độc quyền cạnh tranh không lành mạnh về giá, những hành vi thông đồng liên kết tăng giá khống “đục khoét” nguồn lực của xã hội: Nâng giá đầu vào, tăng giá đầu ra bất hợp lý, góp phần tạo ra nợ xấu ngân hàng; tình trạng tăng giá, chuyển giá trái pháp luật vẫn diễn ra chưa được ngăn chặn có hiệu quả; tình trạng giá giảm thấp - được mùa rớt giá trong nông nghiệp chưa có các giải pháp xử lý hữu hiệu. Chi phí đầu tư tài sản cố định trong các doanh nghiệp liên doanh, các công trình đầu tư bằng vốn vay nước ngoài, vốn ngân sách nhà nước không được thẩm định đầy đủ; chi phí tiền lương, tiền thưởng hạch toán không đúng quy định… đã tạo sức ép làm tăng chi phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, kết hợp có hiệu quả cả phát triển nền kinh tế theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế nhằm tạo ra chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm ngày càng cao, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN, WTO và các hiệp định thương mại tự do đa tầng, thế hệ mới.
Để thực hiện những yêu cầu đó, các chính sách giá, cơ chế giá phải được hoàn chỉnh theo hướng đáp ứng các yêu cầu của các quy luật kinh tế vốn có của giá cả; bảo đảm giá cả hình thành “theo sân chơi chung”, thị trường chấp nhận trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng, không có ngoại lệ, đặc quyền, đặc lợi nhằm để hướng vào việc khai thác, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, góp phần thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đổi mới quản lý, giúp hình thành một hệ thống tín hiệu khách quan để tính toán các hao phí phù hợp với thị trường một cách công khai, minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh thắng lợi.
Thứ ba, bảo đảm để giá cả trở thành một công cụ phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy cạnh tranh tăng hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm, tạo động lực cho tăng trưởng - đặc biệt là khi thực hiện Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với những sức ép mở cửa thị trường rộng hơn, giảm mạnh thuế quan… Đồng thời, bảo đảm vai trò điều tiết của Nhà nước theo nguyên tắc thị trường hướng vào việc khắc phục những “khuyết tật” của cơ chế thị trường, góp phần thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.
2. Quan điểm, mục tiêu và định hướng điều hành giá thời gian tới
2.1. Quan điểm
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước được thể chế hóa bằng pháp luật, công khai, minh bạch.
Nhà nước phải bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc để giá cả được hình thành và vận động theo các tín hiệu khách quan của các quy luật kinh tế của giá cả gồm quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ, giúp giá cả thực hiện đúng các chức năng khách quan vốn có của giá cả. Nhà nước không can thiệp hành chính, trực tiếp vào mức giá, hệ thống giá… mà thực hiện việc điều tiết chủ yếu bằng pháp luật, bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô phù hợp với yêu cầu, nội dung hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan để gián tiếp tác động đến sự hình thành và vận động của giá cả; xóa bỏ các chính sách xã hội, nhiệm vụ chính trị lồng ghép trong giá; không thực hiện bao cấp, hỗ trợ, bù chéo bất hợp lý… Nhà nước chỉ thực hiện biện pháp điều tiết trực tiếp trong các trường hợp có những “thất bại” của thị trường đối với một số ít hàng hóa, dịch vụ (thất bại về hiệu quả, ngoại ứng, hàng hóa công cộng…) nhưng phải được luật hóa, có tiêu thức minh bạch và cũng phải tuân thủ nguyên tắc thị trường. Sử dụng các biện pháp về giá không trái với các cam kết quốc tế về chống bán phá giá, chống chuyển giá nội bộ, chống trợ cấp, trợ giá và các rào cản khác.
Giá cả được xác lập và quyết định do chính những nhân tố hình thành giá từ “gốc” là sản xuất và lưu thông, nó biểu hiện tổng hợp các mối quan hệ lớn của nền kinh tế, nên trong điều hành giá phải kết hợp đồng bộ, chặt chẽ các giải pháp: Tài chính, tiền tệ, cung cầu, cạnh tranh, tổ chức sản xuất lưu thông hợp lý, để chủ động trực tiếp tác động vào chính những nhân tố hình thành giá; đồng thời phải tạo được sự đồng thuận của các giai tầng trong xã hội để ngăn ngừa các yếu tố tăng, giảm giá theo tâm lý, đầu cơ…
Tránh quan điểm chỉ tập trung chạy theo một cách bị động “chữa cái ngọn” - là mức giá cụ thể đã có trên thị trường khi có biến động - mà “bỏ qua cái gốc” của giá, “cái gốc” làm nên mức giá; tránh áp đặt giá chủ quan, “neo giá” ở mức giá cao hoặc quá thấp bất hợp lý không phù hợp với các yếu tố hình thành giá, các tín hiệu khách quan của thị trường ở trong nước và trên thế giới. Nhưng đồng thời cũng phải tránh quan điểm thả nổi để giá cả hình thành tự phát, tự do tác động bất lợi đến nền kinh tế.
2.2. Mục tiêu
Bảo đảm để giá cả thị trường trở thành một tín hiệu khách quan phát huy được các chức năng đòn bẩy kinh tế vốn có trong cơ chế thị trường là: Phân bổ hợp lý các nguồn lực kinh tế, kích thích sản xuất phát triển, tính toán hao phí lao động xã hội. Đồng thời, không chỉ phản ánh khách quan các mối quan hệ kinh tế lớn mà qua đó còn tạo được những tác động tích cực trở lại giải quyết hợp lý các mối quan hệ kinh tế - xã hội phản ánh trong giá cả.
Xây dựng và điều hành được hệ thống giá, mặt bằng giá hợp lý, có mối tương quan với giá thị trường thế giới, cạnh tranh công khai, minh bạch, góp phần ngăn ngừa hoạt động của nền kinh tế ngầm, kiểm soát lạm phát, tái cơ cấu kinh tế để đổi mới mô hình tăng trưởng.
Bảo đảm vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước về giá thống nhất với quản lý tài chính, tiền tệ và các công cụ kinh tế vĩ mô khác hướng vào việc khắc phục những khuyết tật và bất lực của cơ chế thị trường.
2.3. Định hướng
2.3.1. Những định hướng chung
Tiếp tục thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đối với đại bộ phận hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế đang thực hiện cơ chế giá thị trường. Đẩy nhanh lộ trình thực hiện giá thị trường đối với các loại tài nguyên, hàng hóa, dịch vụ, giá cả tiền vốn, sức lao động… hiện chưa thực hiện cơ chế giá thị trường. Không lồng ghép chính sách xã hội, nhiệm vụ công ích mang tính chất bóp méo thương mại trong giá (trợ giá, trợ cước, các chính sách an sinh xã hội, các chính sách hỗ trợ về giá không phù hợp với các cam kết quốc tế…); xóa bỏ chính sách hỗ trợ, bảo hộ, bao cấp, bù chéo về giá và doanh thu không hợp lý đang tồn tại đối với một số hàng hóa, dịch vụ… gắn liền với chính sách tổ chức lại sản xuất, lưu thông hợp lý, chính sách hỗ trợ phù hợp đối với các đối tượng thuộc diện “yếu thế” khi phải đối mặt với cơ chế thị trường, phát triển đầy đủ các loại thị trường: Vốn, tiền tệ, bất động sản, lao động, dịch vụ khoa học công nghệ, bảo hiểm…
Nhà nước thực hiện điều tiết giá cả thị trường chủ yếu bằng pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh về giá, bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô, chỉ can thiệp trực tiếp vào giá của một số hàng hóa, dịch vụ nhất định bằng những hình thức thích hợp do yêu cầu khách quan theo nguyên tắc thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực Nhà nước độc quyền sản xuất - kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chiếm thị phần khống chế, thống lĩnh thị trường.
2.3.2. Định hướng điều hành cụ thể
Một là, hoàn thiện cơ chế điều tiết giá của Nhà nước chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô để tác động vào các nhân tố hình thành và vận động của giá hàng hóa, dịch vụ. Tiếp tục mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá và các hình thức cạnh tranh khác về giá. Tiến hành rà soát, kiên quyết xóa bỏ và không ban hành chính sách mới để ưu đãi, hỗ trợ, bảo hộ không hợp lý qua chi phí sản xuất, giá thành, giá cả đối với “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất… thay vào đó là các chính sách hỗ trợ, bảo hộ hợp lý về đầu tư, đào tạo, thông tin, tiếp cận thị trường (xúc tiến thương mại, chính sách thị trường, chính sách sản phẩm, các kênh phân phối…), khoa học công nghệ, tiếp cận vốn… tạo được lợi thế về năng lực cạnh tranh.
Hai là, hoàn thiện cơ chế quản lý giá đối với tài sản hữu hình và tài sản vô hình theo nguyên tắc thị trường. Tiến hành xây dựng ban hành và tổ chức thực hiện cơ chế hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phù hợp với giai đoạn thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới khi phải mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan; quy định các giải pháp cụ thể tạo sức ép doanh nghiệp giảm giá thành, trong đó có những yếu tố quyết định cạnh tranh thắng lợi - thông qua các biện pháp: Áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và quản trị, sử dụng các nguồn lực hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, nâng cao năng suất lao động, tổ chức lại mạng lưới lưu thông phù hợp, văn minh, hiện đại cho từng loại hàng, từng khâu lưu thông, giảm thiểu lòng vòng, chồng chéo.
Ba là, đối với những loại hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực Nhà nước độc quyền sản xuất - kinh doanh, những loại hàng hóa, dịch vụ do các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh có thị phần khống chế như: Đất đai, tài nguyên, điện, xăng dầu, nước sạch, bưu chính, cước vận chuyển hành khách bằng xe buýt… Nhà nước định giá bằng những hình thức thích hợp nhưng theo nguyên tắc thị trường chấp nhận, xóa chế độ “bao cấp, bù chéo” đối với các loại giá còn thực hiện cơ chế này. Đẩy nhanh hoàn thành lộ trình giá thị trường đối với các hàng hóa sau: (i) Đối với điện: Tiếp tục thực hiện giá cạnh tranh đối với khâu phát điện, xây dựng lộ trình giá cạnh tranh gắn với phát triển các cấp độ thị trường, bảo đảm để từ năm 2022 trở đi có giá bán buôn điện cạnh tranh gắn với thị trường bán buôn điện cạnh tranh, từ sau năm 2022 có giá bán lẻ điện cạnh tranh gắn với thị trường bán lẻ điện cạnh tranh và một mức giá điện bán lẻ cho sinh hoạt. Nhà nước chỉ giữ độc quyền đối với khâu truyền tải điện; (ii) Đối với xăng dầu: Tuy hiện nay Nhà nước không quy định mức giá cụ thể, nhưng vẫn khống chế tỷ lệ điều chỉnh giá của doanh nghiệp, bản chất là Nhà nước vẫn quy định giá (bằng tỷ lệ %); cần tiến tới giá thị trường thực sự phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường xăng dầu cho thương nhân nước ngoài vào kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam, bảo đảm có giá xăng dầu cạnh tranh; (iii) Đối với giá các ngành công nghiệp xử lý chất thải rắn, nước thải: Cần áp dụng cơ chế giá thị trường từ năm 2016. Đối với nước sạch cho các mục đích sử dụng, chuyển sang cơ chế giá thị trường, có cạnh tranh về giá từ sau năm 2020 gắn với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa thu hút đầu tư phát triển ngành.
Bốn là, đối với các dịch vụ công: Đổi mới các hoạt động cung ứng dịch vụ công, phù hợp với cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; chuyển dứt khoát từ tư duy đến cách thức tổ chức thực hiện cung ứng dịch vụ công hiện nay mang nặng “tính quản lý” sang tư duy “phục vụ”. Tiến hành rà soát danh mục các dịch vụ công hiện nay đang áp dụng chế độ thu phí, lệ phí sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Trước mắt, trừ những loại dịch vụ công thuần túy gắn với những hoạt động thực thi quyền lực của Nhà nước (gồm các hoạt động quản lý nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, đến quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, các hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt về chủ quyền quốc gia, các lĩnh vực tư pháp, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội…), đây là những dịch vụ đặc biệt không thể xã hội hóa hay tư nhân hóa. Nhà nước quy định mức phí theo nguyên tắc phi lợi nhuận, đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội, người dân được thụ hưởng các dịch vụ này theo nguyên tắc được Nhà nước phục vụ. Các loại dịch vụ công khác cần chuyển ngay sang hoạt động theo cơ chế thị trường, có cạnh tranh, không bao cấp tràn lan. Cụ thể:
Đối với các dịch vụ công không thuần túy (gồm dịch vụ công cộng cung cấp những phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân như: Giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khỏe, thể dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội…) cần thực hiện mạnh chính sách xã hội hóa; giao quyền tự chủ cho các đơn vị, tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, không bao cấp, nhưng cũng không thương mại hóa theo thị trường hoàn toàn. Nhà nước quy định khung giá theo nguyên tắc tính đúng, tính đủ; các tổ chức cung ứng dịch vụ cạnh tranh về giá gắn với chất lượng dịch vụ trong khung giá.
Đối với các dịch vụ công ích cung ứng những hàng hóa, dịch vụ cơ bản thiết yếu cho cộng đồng như: Vệ sinh môi trường, cấp nước sạch, thu gom xử lý chất thải, nước thải… đây là những lĩnh vực có khả năng xã hội hóa cao, thực hiện theo cơ chế thị trường, khuyến khích cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ. Các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định giá theo nguyên tắc thị trường dựa vào các hướng dẫn về căn cứ, nguyên tắc, phương pháp do Nhà nước quy định.
Năm là, đối với các loại hàng hóa, dịch vụ đang có cạnh tranh trong sản xuất - kinh doanh, áp dụng cơ chế giá thị trường có cạnh tranh về giá, gồm giá của các ngành công nghiệp (cơ khí - luyện kim, hóa chất, điện tử, công nghệ thông tin, da giầy, chế biến nông, lâm, thủy sản, thực phẩm đồ uống; sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác và chế biến khoáng sản, dầu khí, than…), giá của các ngành nông nghiệp, các ngành dịch vụ ngoài dịch vụ công…, tiếp tục thực hiện cơ chế thị trường đầy đủ, theo đó giá do người mua, người bán thỏa thuận trên cơ sở các yếu tố hình thành giá hợp lý, theo tín hiệu khách quan của cung - cầu, cạnh tranh, sức mua, giá thị trường trong nước và thế giới; gắn với các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước và các chính sách hỗ trợ hợp lý không vi phạm các cam kết quốc tế, giúp giảm chi phí sản xuất và giá thành như: Các chính sách đất đai, các biện pháp khoa học - kỹ thuật, đầu tư chiều sâu, thâm canh tăng năng suất, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến thực hiện các biện pháp độc quyền ngăn ngừa tình trạng ép giá mua, giá bán… để tác động hướng giá cả vận động theo mục tiêu đã định.