Cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia: Chìa khóa đảm bảo cho kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh và bền vững

Cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia: Chìa khóa đảm bảo cho kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh và bền vững 23/05/2016 08:00:00 4124

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia: Chìa khóa đảm bảo cho kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh và bền vững

23/05/2016 08:00:00

TS. Lê Hải Mơ

Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính

Giai đoạn 2011 - 2015, cải cách đã tạo ra động lực cho kinh tế Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, đảo ngược tình thế, vươn tới thành tựu ngày càng cao và toàn diện. Việt Nam phát triển vượt trội hơn các nước khác ở Đông Nam Á, đi ngược lại xu hướng kinh tế trì trệ phổ biến trong khu vực; tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2015 chỉ đạt 3,1%, mức tăng yếu nhất kể từ cuộc suy thoái năm 2009; kinh tế Trung Quốc tiếp tục xu thế giảm tốc mạnh và đang đối diện với nguy cơ khủng hoảng; năm 2015 tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển giảm tốc năm thứ 5 liên tiếp. Muốn tiếp tục duy trì xu thế tăng trưởng nhanh, bền vững trong giai đoạn tới, Việt Nam cần cải cách mạnh hơn, đặc biệt là tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng… trong đó chìa khóa của vấn đề là cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia.

1. Việt Nam đang có cơ hội phát triển to lớn và sáng lạn nhưng chưa chắc chắn nếu thiếu cải cách mạnh mẽ và đúng hướng

2015 là một năm đầy thách thức từ tình hình thế giới với nhiều biến cố trong cả kinh tế lẫn chính trị… nhưng kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, vượt xa những mục tiêu đã đặt ra. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,68% trong bối cảnh lạm phát thấp, nền kinh tế Việt Nam khẳng định sự phục hồi ngày càng mạnh và rõ nét. Chất lượng phát triển đã có chuyển biến rõ rệt: Hiệu quả đầu tư đã được cải thiện (tỷ lệ đầu tư/GDP giảm mạnh từ 40% giai đoạn trước xuống còn 31 - 32%, trong khi đó tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 5,9%, hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn, hệ số ICOR giai đoạn 2011 - 2015 giảm mạnh so với 6,96 trong giai đoạn 2006 - 2010; năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) tăng nhanh và có tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng GDP cao (giai đoạn 2011 - 2015, TFP đóng góp khoảng 33,4% GDP, trong khi 2006 - 2010 là -4,52%); chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng 12 bậc trong khi một số chỉ số khác về vĩ mô, năng suất lao động… đang dịch chuyển tới những mốc tốt hơn so với những năm trước.

Bên cạnh hai chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng phản ánh bức tranh tổng thể của nền kinh tế là tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát, nền kinh tế cũng đạt được những bước tiến tích cực về xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Tính đến ngày 30/11/2015, 99,6% nợ xấu đã được giải quyết và tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống được đưa về mức 2,72%.

Bước vào thời kỳ phát triển mới, nền kinh tế nước ta đang có những thuận lợi cơ bản: Thứ nhất, kết quả cải cách thể chế kinh tế, đặc biệt là cải thiện môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia… sẽ phát huy tác dụng, từ đó, tạo ra sung lực để nền kinh tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn; Thứ hai, năng lực sản xuất của nhiều ngành kinh tế như chế biến, chế tạo; xây dựng; thương mại; ngân hàng… còn dư địa để tăng trưởng cao hơn trong năm 2016; Thứ ba, kết quả của những chính sách tốt như Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Đầu tư (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 01/7/2015 đã tạo ra làn sóng thành lập doanh nghiệp mới với quy mô lớn chưa từng có - đây sẽ là động lực tăng trưởng quan trọng của thời kỳ tới. Số liệu thống kê cho thấy, 2015 là năm có số lượng doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký cao nhất trong 5 năm gần đây. Số lượng doanh nghiệp được khai sinh liên tục tăng: Tháng 7/2015 là 6,9 nghìn doanh nghiệp; tháng 8/2015: 9,3 nghìn; tháng 9/2015: 7 nghìn; tháng 10/2015: 9,2 nghìn; tháng 11/2015: 9,3 nghìn và tháng 12/2015: 7,9 nghìn. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm cho nền kinh tế trong năm 2015 đạt 1.452,54 nghìn tỷ đồng (vốn đăng ký mới đạt mức cao kỷ lục là 601,52 nghìn tỷ đồng và 851,02 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp tăng vốn trong năm 2015); Thứ tư, giá dầu dự báo tiếp tục giảm sẽ ảnh hưởng nhất định đến nguồn thu ngân sách nhà nước từ dầu thô… nhưng sẽ giúp giảm chi phí đầu vào của hầu hết các ngành kinh tế, giảm giá thành sản phẩm tạo điều kiện để sản xuất phát triển, kích thích tiêu dùng.

Nhìn chung, từ cuối năm 2015 đến nay, hầu hết các tổ chức, các trung tâm nghiên cứu quốc tế đều tái khẳng định triển vọng phát triển sáng lạn, thậm chí nâng mức dự báo tăng trưởng trong trung và dài hạn của kinh tế Việt Nam.

Năm 2015, Bloomberg nhận định, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao thứ 6 trong số các nền kinh tế mới nổi trên thế giới, xếp cùng bảng với các nước như Ấn Độ hay Trung Quốc; tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức cao nhất trong số các quốc gia Đông Nam Á; Việt Nam đang nằm trong nhóm 5 “điểm sáng” về tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi... cùng với Hungary, Rumani, Ba Lan và Cộng hòa Séc. Bloomberg cho rằng, thị trường Việt Nam đang giữ một vị trí “nổi bật” trong khu vực châu Á.

  Ngày 29/12/2015, trang tin Channel News Asia (Singapore) nhận định, nền kinh tế Việt Nam tiến triển vượt trội hơn các nước khác ở Đông Nam Á, ghi nhận Việt Nam đang đi ngược lại xu hướng kinh tế trì trệ phổ biến trong khu vực. Mức tăng GDP 6,68% đã đưa Việt Nam vào nhóm dẫn đầu khu vực.

  ADB đưa ra dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2016 là 6,6%, mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á; đồng thời, ADB cũng cho rằng, tuy lạm phát Việt Nam hiện đang ở mức thấp, nhưng ADB cũng loại bỏ khả năng Việt Nam sẽ phải đối đầu với tình trạng giảm phát.

  Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam về chất lượng cơ sở hạ tầng đã tăng ngoạn mục tới 24 bậc, từ mức xếp hạng 123/139 của năm 2010 lên mức 99/140 trong năm 2015, riêng chỉ số về hạ tầng giao thông vận tải đã tăng 36 bậc.

  Báo cáo cạnh tranh toàn cầu (GCR) 2015 - 2016 của WEF cho thấy, chỉ số cạnh tranh quốc gia (GCI) của Việt Nam đạt 4,3 điểm, xếp ở vị trí 56/140 nền kinh tế được WEF khảo sát. Tại Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia có mức tăng bậc mạnh nhất về chỉ số GCI.

  Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2016 của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng ghi nhận sự cải thiện đáng kể về điều kiện kinh doanh của Việt Nam: từ vị trí thứ 93 (năm 2014) lên vị trí thứ 90 (năm 2015), tăng 3 bậc so với xếp hạng năm 2014 (đáng chú ý là chỉ số về nộp thuế tăng 4 bậc, từ mức 172 trong năm 2014 lên mức 168 trong năm 2015).

Theo chuyên gia kinh tế trưởng khu vực Nam Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương của ANZ, Việt Nam sẽ là một trong những nền kinh tế phát triển vượt trội ở khu vực châu Á trong giai đoạn 2016 - 2017.

  Theo Hãng kiểm toán PricewaterhouseCoopers LLP, từ nay đến năm 2050, Việt Nam có thể trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng lớn nhất thế giới (năm 2014, GDP của Việt Nam xếp hạng thứ 32 thế giới, đạt 509 tỷ USD nếu tính theo sức mua tương đương (PPP); năm 2030, GDP của Việt Nam sẽ xếp hạng 28 thế giới với GDP đạt 1.313 tỷ USD và xếp hạng 22 thế giới vào năm 2050 với GDP đạt 3.430 tỷ USD). Việt Nam có tăng trưởng hằng năm ở mức nổi bật, là một trong hai nước có tăng trưởng GDP bình quân cao nhất trong giai đoạn từ nay đến 2050 là 5,3%; ngược lại, tăng trưởng GDP của Trung Quốc được dự báo giảm xuống dưới 4%.

  Tuy nhiên, điều này vẫn chỉ là tiềm năng và để biến thành hiện thực, Việt Nam cần những chính sách kinh tế vĩ mô mạnh mẽ hơn nữa.

2. Việt Nam đứng trước bước ngoặt của phát triển với thời cơ lớn, nhưng thách thức không nhỏ

Môi trường quốc tế không thuận lợi

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và WB đều hạ triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2016. Theo IMF, kinh tế thế giới tăng trưởng 3,1% trong năm 2015, mức tăng yếu nhất kể từ cuộc suy thoái năm 2009. Trong báo cáo hàng quý về triển vọng kinh tế thế giới (World Economic Outlook), IMF dự báo, kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 3,4% trong năm 2016, từ mức dự báo tăng 3,6% đưa ra hồi tháng 10/2015. Trong báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu (Global Economic Prospects), WB cắt giảm mức dự báo tăng trưởng của kinh tế thế giới trong năm 2016 xuống còn 2,9%, từ mức dự báo tăng 3,3% đưa ra hồi tháng 6/2015.

  Tăng trưởng chậm hơn dự kiến tại các thị trường chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc… có thể ảnh hưởng tới xuất khẩu và tăng trưởng chung của Việt Nam.

Nội tại nền kinh tế

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém cần tập trung khắc phục. Trong đó, nổi lên là chất lượng tăng trưởng theo hướng bền vững chưa cao vì vẫn phải dựa vào vốn, phụ thuộc vào tăng trưởng từ nguồn lao động giá rẻ, tăng trưởng nhờ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ngoài ra, tái cấu trúc nền kinh tế mới chỉ đạt được kết quả bước đầu, chưa đi vào chiều sâu, nhất là vấn đề về tăng năng suất lao động. Hơn nữa, số lượng doanh nghiệp còn rất mỏng và ít so với yêu cầu; nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ; đời sống đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc còn cao; vấn đề về an toàn thực phẩm, an toàn xã hội, công tác vệ sinh môi trường còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, trong năm 2016, bên cạnh cơ hội về không gian phát triển rộng lớn hơn, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít thách thức. Thách thức lớn nhất là phải khai thác hiệu quả những cơ hội từ hội nhập khi đã tham gia Cộng đồng ASEAN và các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.

  Tuy bối cảnh quốc tế không thuận lợi, nền kinh tế chưa hết khó khăn song với lợi thế đang có, Việt Nam có thể biến thách thức thành thời cơ, vận hội nếu thực hiện cải cách mạnh mẽ và bài bản.

3. Nhận diện môi trường kinh doanh và sức cạnh tranh hiện nay của Việt Nam

Môi trường đầu tư kinh doanh là yếu tố tổng hợp, có vai trò quyết định trong duy trì, tái tạo, kích thích tiết kiệm, đặc biệt là việc bỏ vốn kinh doanh của các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Môi trường đầu tư kinh doanh của một quốc gia được coi là tốt xét theo 3 khía cạnh về nguồn lực: Thứ nhất, lực lượng lao động được đào tạo về chuyên môn, có khả năng tiếp thu công nghệ, tổ chức mới, cách làm việc công nghiệp… nhờ đó có thể sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn, với chất lượng đạt chuẩn mực quốc tế. Kết quả là tăng xuất khẩu, dự trữ ngoại tệ, nguồn thu thuế cho quốc gia; Thứ hai, kết cấu hạ tầng tốt, bao gồm đường giao thông, cầu cảng, sân bay, điện nước; Thứ ba, khung pháp lý, thể chế tổ chức tốt, bao gồm: (i) Dịch vụ cấp giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận kinh doanh hay đăng ký sản phẩm phải nhanh gọn, rõ ràng; (ii) Pháp luật về kế toán, kiểm toán và thuế phải minh bạch, nhất quán; (iii) Việc cung cấp về hạ tầng (như năng lượng) phải được định giá theo quy luật thị trường, cho phép doanh nghiệp đánh giá đúng chi phí - hiệu quả sử dụng nguồn lực cho kinh doanh.

Nói một cách ngắn gọn, môi trường kinh doanh là cấu trúc về thể chế, cho phép các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn lực và thị trường. Môi trường kinh doanh tốt, thì khả năng tiếp cận về nguồn lực và thị trường sẽ được khai thông. Môi trường kinh doanh tồi, thì khả năng tiếp cận các nguồn lực tại chỗ, cũng như nguồn lực từ bên ngoài bị ách tắc.

Môi trường đầu tư kinh doanh quốc gia chính là yếu tố tổng hợp nhất, bao trùm nhất, là hiện thân và cộng hưởng của hầu hết các yếu tố nêu trên, là nhân tố quan trọng nhất quyết định thành bại trong thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Vì vậy, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh quốc gia phải tiếp cận theo nguyên tắc hệ thống và đồng bộ. Đối với một nền kinh tế đang hội nhập và tăng trưởng như Việt Nam, việc tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi sẽ làm tăng khả năng thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, về vốn, công nghệ và trình độ tổ chức tiên tiến.

Thông điệp từ quá khứ

Đối với nguồn lực FDI - Việt Nam đã để nhiều “cơ hội vàng” trôi qua. Mặc dù chúng ta nói rất nhiều đến việc chuyển hướng thu hút đầu tư, nhắm tới các tập đoàn hàng đầu thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn... nhưng tiếc thay, điều đó vẫn chưa thành hiện thực, rất nhiều cơ hội để Việt Nam tận dụng và vươn lên đã bị bỏ qua.

Thực tế, trong những năm gần đây, chúng ta liên tiếp đón các nhà đầu tư nước ngoài có chất lượng cả về quy mô vốn đầu tư lớn và trình độ công nghệ cao. Đó là những tập đoàn lớn trên toàn cầu đến tìm hiểu Việt Nam với ý định chọn một địa chỉ đầu tư mới, đúng với mong muốn thu hút đầu tư của Việt Nam từ hàng chục năm nay. Tuy nhiên, rất ít những ý định của các nhà đầu tư lớn đến Việt Nam trở thành hiện thực. Cuối cùng, các tập đoàn lớn lại quyết định đầu tư vào những nước lân cận. Một nhà đầu tư lớn về điện tử và tin học đã không thể đẩy nhanh các dự án của mình ở Việt Nam như dự định… hoặc một vài dự án công nghệ cao quy mô lớn đã triển khai lại vấp phải một số vấn đề do thiếu nhân lực, kết nối hạ tầng công nghệ yếu kém, thiếu sự đồng bộ trong cả nền kinh tế khiến chi phí tăng cao. Mục tiêu chuyển hướng trong thu hút đầu tư FDI, hướng đến các nhà đầu tư hàng đầu thế giới với nguồn vốn lớn, công nghệ cao, công nghệ nguồn... chưa thành hiện thực. Cơ cấu công nghệ của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có khoảng 20% là tiên tiến, còn 80% là trung bình và lạc hậu.

Nguyên nhân cơ bản và tổng hợp nhất là do môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam tụt hậu và chậm được cải thiện so với các đối thủ cạnh tranh (Thủ tục hành chính còn phiền hà và tốn kém; chưa thực sự minh bạch, công bằng và bình đẳng; hệ thống đòn bẩy khuyến khích đã bất hợp lý và có biểu hiện sai lệch theo hướng thúc đẩy các hành vi đầu tư kinh doanh có tính cơ hội và ngắn hạn, chạy theo tìm kiếm địa tô, lợi tức tài chính, các hành vi kinh doanh không lành mạnh, đầu cơ, trục lợi từ các quan hệ thân hữu và lũng đoạn thị trường).

3.1. Môi trường kinh doanh của Việt Nam trong tương quan so sánh quốc tế

Nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, các doanh nghiệp FDI chủ yếu lựa chọn Việt Nam dựa trên những yếu tố giảm chi phí sản xuất, mà chưa phân tích nhiều tới các yếu tố về mặt thể chế. Báo cáo kết quả điều tra doanh nghiệp FDI năm 2014 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện với sự hỗ trợ của Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID)1 đã tiến hành khảo sát tổng số 1.491 doanh nghiệp FDI đến từ 43 quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Đây được xem là khảo sát chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đối với các doanh nghiệp FDI lớn nhất và toàn diện nhất tại Việt Nam. Nhóm nghiên cứu của VCCI đã sử dụng cách tiếp cận mới là so sánh các yếu tố về môi trường kinh doanh của Việt Nam với các đối thủ cạnh tranh.

Kết quả cho thấy, Việt Nam trong tương quan so sánh với các quốc gia cạnh tranh có bốn điểm mạnh nổi bật gồm thuế suất, rủi ro thu hồi tài sản, khả năng tác động chính sách và ổn định chính trị. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có độ rủi ro thu hồi tài sản thấp hơn so với các nước khác. 76,4% doanh nghiệp FDI được khảo sát cho rằng, ở Việt Nam, doanh nghiệp FDI ít phải đối mặt với rủi ro bị thu hồi tài sản hơn so với Trung Quốc và 71% doanh nghiệp xếp hạng Việt Nam cao hơn Thái Lan (Điều này phần nào phản ánh quan ngại của doanh nghiệp về rủi ro bất ổn chính trị tại Thái Lan).

Các doanh nghiệp FDI cho rằng tại Việt Nam, họ có “tiếng nói” hơn trong quá trình xây dựng, thực thi pháp luật liên quan đến hoạt động của mình so với các quốc gia cạnh tranh. Mức độ ổn định chính sách có cải thiện so với năm 2013. Doanh nghiệp FDI đánh giá chính sách của Việt Nam ổn định và dễ đoán hơn hầu hết các quốc gia cạnh tranh. Các kết quả này rất quan trọng bởi doanh nghiệp FDI luôn coi trọng khả năng dự báo chính sách, để từ đó xây dựng chiến lược dài hạn của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ công nghệ cao, tính ổn định chính sách còn quan trọng hơn. 94% nhà đầu tư đánh giá nền chính trị Việt Nam ổn định hơn các quốc gia cạnh tranh.

Năm 2014, Việt Nam vượt trội so với một số đối thủ cạnh tranh về mức thuế. Năm 2015, tiêu chí này còn được cải thiện vượt bậc hơn. Theo các nhà đầu tư, gánh nặng thuế suất ở Việt Nam nhẹ hơn so với Trung Quốc và Philippines, đồng thời, Việt Nam đã rút dần khoảng cách với các nước khác trong khu vực.

Về điểm yếu của môi trường kinh doanh tại Việt Nam so với các quốc gia cạnh tranh, các doanh nghiệp FDI đều chia sẻ cảm nhận chung là môi trường kinh doanh của Việt Nam kém hấp dẫn hơn do yếu tố tham nhũng, chi phí không chính thức, chất lượng dịch vụ hành chính công và chất lượng của cơ sở hạ tầng. Nhà đầu tư xếp hạng cơ sở hạ tầng của Việt Nam ngang bằng với các nước Campuchia và Lào. Riêng đối với yếu tố tham nhũng và gánh nặng của quy định pháp luật, Việt Nam còn bị đánh giá thấp hơn nhiều so với hai nước này.

Nhìn chung, các kết quả trên tương đối nhất quán với kết quả xếp hạng của Việt Nam trong chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) 2014 - 2015 do WEF công bố. Theo chỉ số này, Việt Nam đứng ở thứ hạng 92/144 nước về thể chế, thứ 75 về tham nhũng và 101 về gánh nặng hành chính, 81 về cơ sở hạ tầng và 96 về giáo dục và đào tạo bậc cao2. Trong khi đó, Thái Lan và Malaysia vượt trội hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác , cả hai nền kinh tế này đều có tiềm năng lớn hơn về thu hút nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghệ và giá trị gia tăng cao.

3.2. Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam tuy được nâng hạng nhưng còn tụt hậu xa so với các đối thủ cạnh tranh

  Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCR) 2015 - 2016 do WEF công bố, thì thứ hạng trong khu vực Đông Nam Á như sau: Singapore (2), Malaysia (18), Thái Lan (32), Indonesia (37) và Philippines (47); trong khu vực, Việt Nam là quốc gia có mức tăng bậc mạnh nhất nhưng vẫn xếp thứ 56.

WEF đánh giá năng lực cạnh tranh của 140 nước theo thang điểm 7. Theo đó, điểm năng lực cạnh tranh (GCI) của Việt Nam năm 2015 - 2016 được 4,3 điểm. Các tiêu chí đánh giá của WEF được chia thành 3 nhóm chính, gồm: (i) Yêu cầu cơ bản (môi trường kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục cơ bản, cơ sở hạ tầng, thể chế); (ii) Yếu tố nâng cao (đào tạo và giáo dục bậc cao, hiệu quả thị trường hàng hóa, hiệu quả thị trường lao động, mức độ phát triển của thị trường tài chính, mức độ sẵn sàng về công nghệ, quy mô thị trường); và (iii) Yếu tố về đổi mới và sáng tạo (mức độ phát triển của hệ thống doanh nghiệp, năng lực sáng tạo). Trong 3 nhóm tiêu chí này, Việt Nam được chấm điểm cao nhất ở nhóm yêu cầu cơ bản, với 4,54 điểm, xếp thứ 72.

Các lĩnh vực Việt Nam có thứ hạng thấp ở nửa cuối, trung bình và dưới trung bình gồm: Thể chế (85/140); phát triển thị trường tài chính (84/140); đào tạo và giáo dục bậc cao (95/140); cơ sở hạ tầng (76/140); trình độ kinh doanh (100/140); sẵn sàng công nghệ (92/140); đổi mới sáng tạo (73/140).

Hình 1. Xếp hạng năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển tại châu Á

asia-2794-1443585201.jpg
 

Nguồn: WEF, Global Competitiveness Report, 2015 - 2016

4. Cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia - Chìa khóa đảm bảo cho kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh và bền vững

Môi trường đầu tư kinh doanh gồm rất nhiều yếu tố cấu thành, khá phức tạp, song điều quan trọng trong nghiên cứu là xác định được các yếu tố then chốt quyết định chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh; quan trọng hơn là nhận diện được các yếu kém, nhân tố cản trở để đề xuất các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.

Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp các thể chế, chính sách và nhân tố quyết định mức độ hiệu quả và tính năng suất của một quốc gia. Một nền kinh tế có năng suất, hiệu quả là nền kinh tế có năng lực sử dụng, khai thác tốt các nguồn lực có hạn. Về bản chất, năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực vận hành nền kinh tế với chi phí hợp lý nhất nhưng mang lại kết quả cao trong so sánh quốc tế tương ứng.

Hoàn thiện và nâng cấp môi trường kinh doanh không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, nền kinh tế mà còn thúc đẩy phân bổ nguồn lực một cách hợp lý trên phương diện quốc gia, giữa các khu vực kinh tế và do vậy giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Ngược lại, năng lực cạnh tranh quốc gia cao hay thấp đều trực tiếp làm cho môi trường kinh doanh của một quốc gia trở nên hấp dẫn hay không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Nền kinh tế có phát triển bền vững hay không phụ thuộc nhiều vào năng lực cạnh tranh quốc gia cao hay thấp cũng như mức độ thuận lợi hay kém thuận lợi của môi trường đầu tư, kinh doanh. Trong quan hệ này, việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cần phải đặt trong chiến lược tổng thể cải thiện và nâng cấp môi trường đầu tư, kinh doanh. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là rất cần thiết nhằm tranh thủ hiệu quả cơ hội và lợi ích của các cam kết hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển nhanh, bền vững.

Việt Nam đã tham gia hội nhập quốc tế với mức độ cao nhất vì vậy các giải pháp tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh nói chung, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia nói riêng cần phải tuân theo thông lệ quốc tế và bám sát các tiêu chí cụ thể. Mặc dù hai năm qua, chỉ số về môi trường kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã có bước cải thiện vượt bậc, song cần phải tiếp tục vươn lên thứ hạng cao hơn kể cả mục tiêu theo sát Singapore, đuổi kịp và vượt Malaysia, Thái Lan, Indonesia; hơn nữa không chỉ Việt Nam mà các đối thủ cạnh tranh cũng không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Trong hai năm gần đây, Việt Nam đã ban hành các luật, nghị định theo hướng minh bạch hơn như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao. Kết quả về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia có được là nhờ những nỗ lực không ngừng trong thực hiện “đột phá” cải cách thể chế (hoàn thiện khung khổ pháp lý với nhiều điểm mới, tiến bộ), cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục tái cơ cấu mạnh hơn hệ thống tài chính - ngân hàng và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; Chính phủ thực thi hiệu quả chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bước đầu thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế. Những thành tựu này được các tổ chức quốc tế (WB, WEF, Eurocharm, Moody’s...) ghi nhận qua việc công bố các chỉ số xếp hạng chuyên nghiệp với thứ bậc của Việt Nam không ngừng được cải thiện.

Tuy vậy, kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Việt Nam đang nỗ lực để có những giải pháp vượt qua thách thức, hạn chế; môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam vẫn trong quá trình hoàn thiện, cải tiến... nhất là ở khâu thực thi.

Kết quả sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết số 19/2014/NQ-CP ngày 18/3/2014

Môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam đã có những cải thiện bước đầu. Cụ thể: Thủ tục và thời gian khởi sự doanh nghiệp3; thời gian nộp thuế và bảo hiểm xã hội4 giảm gần một nửa; chỉ số bảo vệ nhà đầu tư được cải thiện… Những thay đổi tích cực đó đã giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Việc cải cách thủ tục hành chính ở lĩnh vực thuế, hải quan, khởi sự doanh nghiệp… được đánh giá cao. Tuy nhiên, các thủ tục về thuế, hải quan, thành lập doanh nghiệp vẫn ở mức thấp so với nhóm nước ASEAN-4. Bên cạnh đó, còn nhiều rào cản do một số bộ, ngành, địa phương đưa ra như vấn đề quy hoạch đất đai, thủ tục đầu tư, phí, lệ phí, vấn đề tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng…

5. Định hướng cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia

Về môi trường đầu tư kinh doanh, Chính phủ nhận định, những kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Việt Nam đang hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện thủ tục hành chính, cải thiện kết cấu hạ tầng, nhiều luật đã được sửa đổi và tiếp tục được ban hành để tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư, kinh doanh. Cải thiện các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh như thuế, hải quan, tiếp cận điện năng… để hướng tới mục tiêu ngang bằng các nước ASEAN-4. Chính phủ Việt Nam cam kết cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh bằng nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó đặt trọng tâm vào thực hiện 3 đột phá chiến lược từ nay cho đến năm 2020 (cải cách thể chế, huy động các nguồn lực cho đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực) nhằm đáp ứng cho các nhu cầu phát triển. Chính phủ Việt Nam tiếp tục thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia; đồng thời, cam kết bảo đảm môi trường chính trị - xã hội ổn định, bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư, cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI hoạt động tại Việt Nam. Cải cách thể chế đóng vai trò then chốt, bởi muốn tăng năng suất lao động thì phải tạo ra một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, khuyến khích cạnh tranh thực chất và bảo vệ quyền sở hữu tài sản.

Việt Nam chủ trương tiếp tục thu hút mạnh mẽ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên thu hút nguồn vốn FDI “chất lượng cao”, các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Thực hiện cải cách đầu tư công, đang cập nhật và sớm công bố các dự án đầu tư theo mô hình hợp tác công tư (PPP) như hạ tầng giao thông, phát triển đô thị... tạo điều kiện cho khu vực tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Việt Nam tiếp tục thay đổi, bổ sung các chính sách và sản phẩm đối với thị trường tài chính. Việt Nam nới “room” cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán. Không hạn chế nhà đầu tư nước ngoài mua trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp...

6. Giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia

Cho đến nay, mặc dù đã triển khai một khối lượng lớn việc rà soát văn bản, cắt giảm rất nhiều các thủ tục hành chính, nhưng vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội trình Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhận định: “Cải cách hành chính một số mặt chưa đạt yêu cầu. Năng lực xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế chính sách chưa cao; một số văn bản pháp luật ban hành còn chậm, chưa phù hợp với thực tiễn. Chất lượng xây dựng và quản lý chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển chưa đáp ứng yêu cầu. Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp”. Để góp phần khắc phục những mặt hạn chế nêu trên, trong thời gian tới, cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tập trung thực hiện tốt các mục tiêu định lượng nêu trong Nghị quyết số 19/2015/NQ-CP của Chính phủ ngày 12/3/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây là lần đầu tiên trong suốt nhiều năm đổi mới và hội nhập, công tác cải cách hành chính có được những chỉ tiêu mang tính cam kết rõ ràng theo cách so sánh với các nước ASEAN để thực hiện và có sự chỉ đạo trực tiếp, sát sao và rất quyết liệt của Chính phủ. Thực tế chỉ ra rằng, việc cải cách các thủ tục hành chính không phải quá phức tạp, khó khăn về mặt chuyên môn nghiệp vụ, nhưng lại chuyển động rất chậm nếu không có các biện pháp cần thiết. Vì vậy, giải pháp chính cho nội dung này là cần áp đặt kỷ luật hành chính trong khâu tổ chức thực hiện.

Hai là, cùng với việc thực hiện các mục tiêu định lượng nêu trong Nghị quyết số 19/2015/NQ-CP, cần khắc phục cơ chế sinh ra những thủ tục hành chính của giai đoạn vừa qua. Nếu không chú ý thỏa đáng đến khía cạnh này, công cuộc cải cách thủ tục hành chính trở thành vô tận do cơ chế liên tục đẻ ra những thủ tục mới cần phải được cải cách. Một trong những ví dụ điển hình là quá trình tự sinh sôi của các loại “giấy phép con”. Giải pháp chính là cần kết hợp giữa những quy định pháp luật và có chế tài cần thiết để thực hiện.

Ba là, về dài hạn, cần chuyển trọng tâm nhiệm vụ sang việc nâng cao chất lượng chính sách. Việc cắt giảm các thủ tục hành chính sẽ trở nên ít ý nghĩa nếu chất lượng nội dung các chính sách không được cải thiện (thậm chí rơi vào cách làm theo kiểu phong trào). Đây là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, là nội dung chính yếu của cải cách thể chế và đòi hỏi phải có chương trình dài, kiên trì. Giải pháp chính là, một mặt, nắm vững tinh thần của cải cách kinh tế thị trường đầy đủ và hội nhập; mặt khác, nâng cao chất lượng của đội ngũ công chức/viên chức, nhất là những người trực tiếp tham gia xây dựng chính sách (trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm/đạo đức công vụ).

Bốn là, rà soát, sửa đổi và bổ sung các cơ chế chính sách theo hướng ổn định, minh bạch. Xem xét toàn diện các quy định về điều kiện kinh doanh, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, hải quan, thủ tục khởi sự doanh nghiệp, rút ngắn quy trình xử lý, giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính về đất đai, xây dựng, đầu tư. Tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, bảo đảm một cách đầy đủ quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

Năm là, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, tập trung đầu tư hệ thống giao thông nông thôn; tiếp tục phát triển hạ tầng đô thị, khu công nghiệp, khu du lịch theo nhiều hình thức đầu tư. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi hợp lý để huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội (gồm VND, ngoại tệ, vàng và kim loại quý) để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Cải thiện các yếu tố về thể chế, hạ tầng cơ sở là vấn đề trọng yếu để khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình bỏ vốn vào sản xuất - kinh doanh. Đây cũng là các yếu tố nền tảng cơ bản giúp các doanh nghiệp và hộ gia đình giảm gánh nặng chi phí, nâng cao năng suất lao động, tăng cơ hội kinh doanh.

Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động quốc gia và sự đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo.

Bảy là, tăng cường và nâng cấp chất lượng ổn định kinh tế vĩ mô, năng lực ứng phó với các biến động bất lợi từ môi trường quốc tế và những vấn đề phát sinh trong phát triển và hội nhập quốc tế.

  Cuối cùng, từ thực tiễn triển khai Nghị quyết số 19/2015/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề này đối với chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong giai đoạn 10 năm tới, sẽ là phù hợp nếu Việt Nam xây dựng, ban hành Đề án tổng thể về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đồng thời, thực hiện giám sát nghiêm ngặt quá trình tổ chức và triển khai.

Tài liệu tham khảo

1. Dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội trình Đại hội lần thứ XII của Đảng.

2. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế năm 2015 và nhiệm vụ năm 2016.

3. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu.

4. Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Báo cáo hàng quý về triển vọng kinh tế thế giới.

5. Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Báo cáo cạnh tranh toàn cầu (GCR) 2015 - 2016.

6. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2016.

7. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Dự báo kinh tế châu Á.

8. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Báo cáo kết quả điều tra doanh nghiệp FDI năm 2014.

9. Tài liệu do Hãng kiểm toán PriceWaterhouseCoopers LLP công bố năm 2015.

10. Vương Đình Huệ (2016), 5 giải pháp thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia.

*1 Từ năm 2005, VCCI thực hiện khảo sát khoảng 8.000 - 10.000 doanh nghiệp dân doanh mỗi năm để xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) cho 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Từ năm 2010, VCCI tiến hành điều tra thêm các doanh nghiệp FDI tại các tỉnh, thành phố thu hút nhiều vốn FDI nhất, nhưng không dùng để xếp hạng mà để phân tích các đánh giá của khu vực doanh nghiệp này về môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

*2 Klaus Schwab và Xavier Sala-i-Martín (2014), Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2014 - 2015: Bản dữ liệu đầy đủ, http://www3.weforum.org/docs/WEF_GlobalCompetitivenessReport_2014-15.pdf.

*3 Thủ tục khởi sự doanh nghiệp được cắt giảm từ 10 thủ tục xuống còn 5 thủ tục; thời gian khởi sự doanh nghiệp giảm từ 31 ngày xuống còn 6 ngày.

*4 Thời gian nộp thuế và bảo hiểm xã hội giảm từ 872 giờ xuống còn 400 giờ.