Đổi mới mô hình phát triển kinh tế trong thời gian tới

Đổi mới mô hình phát triển kinh tế trong thời gian tới 20/05/2016 10:08:00 1720

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Đổi mới mô hình phát triển kinh tế trong thời gian tới

20/05/2016 10:08:00

PGS. TS. Bùi Tất Thắng

Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam đến nay đã trải qua 3 thập kỷ. Trong quá trình đó, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đã được nghiên cứu, thảo luận, đáng chú ý là vấn đề đổi mới tư duy phát triển, đổi mới mô hình phát triển kinh tế và hàng loạt nội dung liên quan. Để góp phần thảo luận thêm về chủ đề cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam, bài viết này tập trung vào một số nội dung chủ yếu về tư duy phát triển, tiếp tục đổi mới mô hình phát triển kinh tế trong thời kỳ tới.

Đặt vấn đề

Mô hình phát triển kinh tế có thể hiểu một cách đơn giản là phương thức tổ chức hoạt động kinh tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định, trong đó cơ chế phân bổ các nguồn lực và cơ chế duy trì động lực là những nội dung chủ yếu nhất tạo nên nét đặc trưng của mỗi mô hình. Theo cách hiểu thông thường, nội hàm phát triển kinh tế bao gồm các nội dung: Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và sự tham gia, chia sẻ thành quả phát triển của mọi người.

Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã khẳng định: “Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”.

Như vậy, có thể quan niệm rằng, đổi mới tư duy phát triển để thực hiện sự chuyển đổi từ mô hình kinh tế đang chuyển đổi hiện nay sang mô hình kinh tế thị trường hiện đại một cách hiệu quả nhất, với nội dung chủ yếu là:

Mô hình phát triển hiện tại (đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường)

è

Mô hình phát triển hiện đại (hoàn thành quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường)

Tăng trưởng: Gia tăng quy mô kinh tế chủ yếu bằng cách huy động thêm nguồn lực mới vào sản xuất (lao động, vốn, tài nguyên tăng thêm)

Tăng trưởng: Gia tăng quy mô kinh tế chủ yếu bằng cách tăng năng suất lao động (gia tăng mức đóng góp của TFP cho tăng trưởng)

Chuyển dịch cơ cấu (lao động) theo hướng công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH)

Chuyển dịch cơ cấu (lao động) theo hướng CNH, HĐH

Đảm bảo cho mọi người được chia sẻ thành quả tăng trưởng

Đảm bảo cho mọi người được chia sẻ thành quả tăng trưởng

1. Đổi mới tư duy phát triển, xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trong quá trình đổi mới, tìm tòi mô hình phát triển kinh tế, nhận thức lý luận về mô hình kinh tế mới ở Việt Nam đã trải qua các tên gọi mô hình cụ thể sau: “Cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa (XHCN)” (Đại hội VI tháng 12/1986), “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước” (Đại hội VII tháng 6/1991), “nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN” (Đại hội VIII tháng 7/1996) và chính thức xác định tên gọi “kinh tế thị trường định hướng XHCN” từ Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) đến nay.

Nhìn ra thế giới, trong số những nền kinh tế XHCN đặt vấn đề cải cách cuối những năm 1980, chỉ có Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và vì thế, vẫn tiếp tục kiên trì tìm kiếm mô hình kinh tế XHCN, trong đó Việt Nam gọi là “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, còn Trung Quốc gọi là “kinh tế thị trường XHCN mang đặc sắc Trung Quốc”. Các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô (cũ) đã đi theo mô hình kinh tế thị trường phổ biến ở Tây Âu. Dẫu sao thì tất cả các nước XHCN cải cách/đổi mới đều giống nhau ở điểm rời bỏ “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” (điểm đi) để chuyển sang “kinh tế thị trường” (điểm đến), nhưng khác nhau ở chỗ có hai nước (Việt Nam và Trung Quốc) vẫn kiên định con đường XHCN.

Kinh tế thị trường (định hướng) XHCN là sản phẩm của tư duy xuất hiện trong giai đoạn cải cách/đổi mới hiện nay, đang trong giai đoạn hình thành và thể nghiệm nên những đặc điểm xác định tính chất còn chưa thực sự rõ ràng/chín muồi, chưa ổn định. Những phân tích, đánh giá về chúng ít nhiều chưa có được những căn cứ thực tế vững chắc và “chưa có tiền lệ lịch sử”.

Đối với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, quá trình nhận thức cũng từng bước hoàn thiện. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu cụ thể: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN... Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH”1.

Đến Đại hội X (tháng 4/2006), vấn đề mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được trình bày là “Nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường” với các nội dung: “Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”2.

Đại hội XI (tháng 01/2011) đặt vấn đề “Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường XHCN”, trong đó lưu ý: “Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Và để “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”, trước hết cần “giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường”, cụ thể là:

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

“Báo cáo đánh giá giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020” trình Đại hội XII của Đảng nêu: “Tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy luật kinh tế thị trường, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Đồng thời, Nhà nước sử dụng thể chế, luật pháp, các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội, chăm lo cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo”.

2. Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội

Khi đã xác định khung khổ thể chế chung của mô hình phát triển kinh tế là “thị trường”, vấn đề quyết định còn lại là phát triển lực lượng sản xuất, trong đó, cốt lõi của vấn đề phát triển (bền vững) là nâng cao năng suất lao động xã hội, làm cho nhân tố TFP ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Đây là cơ sở vật chất quyết định sự thành bại trong cạnh tranh trên thương trường. V.I. Lê-nin đã từng coi “năng suất lao động là nhân tố quyết định cho một trật tự xã hội mới”.

Theo GS. Trần Văn Thọ (Đại học Washeda, Nhật Bản), nền kinh tế phát triển có hiệu suất khi độ gia tăng của nó nhiều hơn là tổng phần tăng đầu vào, tức các yếu tố sản xuất. Phần nhiều hơn đó có được do áp dụng ngày càng nhiều các tiến bộ khoa học - công nghệ (KHCN), tri thức quản lý kinh doanh; tư bản và tài nguyên được sử dụng có hiệu suất hơn và trình độ lao động ngày càng cao hơn nhờ đẩy mạnh giáo dục và đào tạo... Trong phương pháp tính toán về sự tăng trưởng, phần còn lại này được gọi là năng suất tổng hợp của tất cả các yếu tố sản xuất”3.

Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, vấn đề nâng cao năng suất lao động cũng được thường xuyên đề cập. Chẳng hạn, trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng đều nêu rõ hiện trạng tăng trưởng còn chủ yếu dựa vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang tăng trưởng theo chiều sâu. “Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc” (Báo cáo Chính trị) nguyên nhân chủ yếu là do “Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước”. Vì vậy, Đại hội xác định rõ quan điểm và phương hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn tới là: “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định: “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức”. “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020” trình Đại hội XII của Đảng cũng xác định: “Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước”. Các văn kiện Đại hội cũng đề ra rất nhiều giải pháp, gồm: Hoàn thiện thể chế kinh tế; coi KHCN và giáo dục là quốc sách hàng đầu; nâng cao hiệu quả đầu tư; mở cửa, hội nhập…

3. Các giải pháp chính sách chủ yếu để thực hiện mô hình phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian tới

3.1. Hoàn thành quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường

Việc hoàn thành quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có ý nghĩa nền tảng quan trọng hàng đầu để đảm bảo thực hiện mô hình phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế trong thời kỳ tới. Trong giai đoạn đến 2020 (và tầm nhìn 2030), nên tập trung vào một số trọng tâm chủ yếu sau:

Một là, tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, lấy mốc 2018 (mốc xác định được công nhận là kinh tế thị trường theo cam kết gia nhập WTO) làm thời điểm phấn đấu hoàn thành quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đầy đủ, thực chất. Đến thời điểm đó, cơ chế thị trường (giá cả, cạnh tranh, chế độ hợp đồng…) được áp dụng một cách rộng rãi, phổ biến (bao gồm cả lĩnh vực cung ứng dịch vụ công).

Hai là, thực hiện nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu trên tinh thần Điều 33 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, được thể chế hóa thành các chính sách cụ thể.

Ba là, phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nhất là đối với đất nông nghiệp để khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất. Áp dụng rộng rãi chế độ đấu thầu quyền sử dụng đất và khai thác tài nguyên.

Bốn là, phát triển thị trường lao động theo hướng tạo thuận lợi cho việc tự do dịch chuyển lao động; bãi bỏ chế độ quản lý con người bằng hộ khẩu.

Năm là, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu tham gia cung cấp dịch vụ công dưới nhiều hình thức. Các chính sách của Nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công phải đảm bảo bình đẳng, không phân biệt giữa đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập. Đối với những loại hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu mà Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho đối tượng chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số… thì thực hiện trực tiếp tới tay các đối tượng hưởng thụ, thay cho cách làm thông qua người cung cấp và qua giá như trước đây.

3.2. Nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước

Đây là một trong những vấn đề đã được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, đã triển khai thực hiện và đạt nhiều kết quả, nhưng so với yêu cầu thì còn nhiều việc phải làm tiếp và quan trọng hơn, có lẽ cần thay đổi cách làm đối với một số việc. Chẳng hạn:

Một là, thí điểm áp dụng cách làm mới đối với việc xây dựng một số văn bản pháp luật theo nguyên tắc những người trực tiếp thực thi pháp luật ở lĩnh vực nào thì không trực tiếp xây dựng các văn bản pháp lý để thực thi.

Trong nền kinh tế thị trường, nhìn chung, một văn bản pháp luật về kinh tế ban hành khó có khả năng đem lại lợi ích trực tiếp một cách như nhau giữa các cá nhân/các nhóm, giới trong xã hội, nên nhóm soạn thảo phải có văn bản giải trình nêu rõ cái lợi và cái giá phải trả (nếu có) cho việc thực thi. Cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào những cơ sở đó để quyết định.

Hai là, áp dụng quy trình quản lý công vụ tiên tiến (theo quy chuẩn ISO), công khai, minh bạch; đổi mới cách thức giám sát, đánh giá việc thực thi pháp luật. Đây là cách thức mà nhiều nền kinh tế tiên tiến (Nhật Bản, Anh…) đã và đang làm thường xuyên. Chẳng hạn, nền hành chính công ở Anh hiện nay về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của những tư tưởng cải cách trong lĩnh vực dịch vụ công được đề xuất giữa thế kỷ XIX. Báo cáo “Report on the Organisation of the Permanent Civil Service” tháng 02/1854, do Sir Charles Edward Trevelyan (1807 - 1886) và Sir Stafford Henry Northcote (1818 - 1887) đề xuất đã làm biến chuyển hoàn toàn hệ thống hành chính công ở Vương quốc Anh hồi đó.

Ba là, thí điểm đổi mới cơ chế phân cấp theo hướng phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý kinh tế - xã hội giữa trung ương và địa phương; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội đối với chính quyền các cấp; bao gồm cả cơ chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống nhất quốc gia về quy hoạch phát triển và cân đối nguồn lực. Các cấp chính quyền địa phương tập trung vào cung cấp dịch vụ công, bảo đảm công ăn việc làm, an sinh và an toàn xã hội, nâng cao phúc lợi và cải thiện đời sống cho người dân.

Bốn là, tiến hành thí điểm xây dựng một số yếu tố của thể chế kinh tế mới, ví dụ mô hình khu kinh tế tự do/đặc khu kinh tế. Đây không phải ý tưởng mới, nhưng cần có cách làm mới và tiếp cận vấn đề một cách thực tế hơn. Thế giới quanh ta có một số ví dụ thực tế có giá trị tham khảo chính sách rất trực tiếp, chẳng hạn: Thâm Quyến của Trung Quốc, Dubai của Các Tiểu Vương quốc Ả-rập Thống nhất, Incheon và Jeju của Hàn Quốc…

Năm là, hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế. Để có quyết sách đúng đắn, hợp lý, bài học đầu tiên rút ra từ các cuộc khủng hoảng là cần có một thể chế phù hợp để có thể kiểm soát hữu hiệu các rủi ro, trong đó trước hết là hệ thống thông tin kinh tế đầy đủ, kịp thời để nhận dạng sớm những “bong bóng kinh tế” có thể gây nên “đổ vỡ”. Về dài hạn, cần xây dựng một lộ trình “đuổi kịp” hệ thống các chỉ tiêu thống kê theo thông lệ quốc tế cho cả giai đoạn đến 2020, cả về số lượng các chỉ tiêu lẫn phương pháp tính, đảm bảo thực hiện mục tiêu “phù hợp với tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế”. Ngoài ra, cần gấp rút kiện toàn hệ thống nghiên cứu dự báo và cảnh báo kinh tế quốc gia cũng như cơ chế giám sát và chế tài nghiêm khắc đối với các thông tin không trung thực.

3.3. Phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất tốt, kỹ năng chuyên môn cao

Phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất tốt và kỹ năng nghề nghiệp đạt trình độ cao có ý nghĩa quyết định đối với phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Trong 10 - 15 năm tới, nền kinh tế nước ta nằm trọn trong thời kỳ “dân số vàng”. Đây là một cơ hội tốt của sự phát triển. Nền kinh tế muốn phát triển thì phải tài sản hóa được các nguồn lực, hay nói cách khác, quá trình phát triển kinh tế chính là quá trình hiện thực hóa tài sản từ các nguồn lực, trong đó có nguồn lực con người. Nhiều quốc gia phát triển kinh tế thành công nhờ tài sản hóa nguồn nhân lực.

Các giải pháp chính sách cụ thể để phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất tốt, kỹ năng chuyên môn cao trong giai đoạn đến 2020 nên bao gồm: (i) Cải cách giáo dục để nâng cao mặt bằng trí tuệ xã hội, làm cho đội ngũ lao động có thể đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá trình CNH; (ii) Đổi mới chế độ tuyển chọn, sử dụng nhân lực theo hướng tạo cơ hội bình đẳng trong việc tuyển dụng, đề bạt để phát huy tối ưu khả năng của đất nước và tạo khí thế hăng say làm việc... qua đó tăng năng lực xã hội; (iii) Nghiên cứu cải cách chế độ tiền lương, tạo cơ sở cho việc định hướng đào tạo và sử dụng nhân lực, đặc biệt là nhân tài; (iv) Đổi mới khung chương trình, tăng cường kỹ năng sống, giảm tải nội dung trong các bậc học phổ thông; nâng cao kiến thức chuyên sâu và tác phong công nghiệp trong đào tạo nghề; phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu ở bậc đại học; (v) Phát triển hợp lý và bảo đảm bình đẳng giữa giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập; (vi) Thí điểm chuyển đổi mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và đầu tư phát triển.

3.4. Phát triển khoa học - công nghệ phục vụ phát triển kinh tế

Vai trò của KHCN ngày càng lớn trong phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, thậm chí mang tính quyết định, bởi trong số những nhân tố đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng… yếu tố KHCN ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Xu thế phát triển chung ở nhiều quốc gia là theo đuổi KHCN tiên tiến, bởi đó là nguồn lực vô tận của sự phát triển. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, cho đến nay, KHCN của Việt Nam vẫn còn nhiều mặt hạn chế so với các lĩnh vực khác cũng như so với trình độ phát triển KHCN khu vực và thế giới.

Ở góc độ là một giải pháp chính sách phục vụ phát triển kinh tế nhanh và bền vững, phải làm cho KHCN thực sự trở thành một nguồn lực của sự phát triển. Theo đó, phát triển nguồn nhân lực KHCN cần được xem là trọng tâm của giải pháp về phát triển KHCN. Những nội dung chính cần triển khai để KHCN phát triển và phục vụ tốt nhất cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững thời kỳ đến 2020 gồm:

Một là, đảm bảo cơ sở hạ tầng thiết yếu cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Khẩn trương hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin KHCN quốc gia. Đối với một số lĩnh vực khoa học, nên thành lập một hội đồng thông tin và dịch thuật quốc gia có nhiệm vụ tuyển chọn và dịch thuật, xuất bản những ấn phẩm liên quan đến lĩnh vực khoa học chuyên ngành, góp phần cập nhật, bổ sung, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng thông tin khoa học.

Hai là, để KHCN có cơ hội phục vụ phát triển kinh tế, phải tạo ra thị trường KHCN thực sự. Tinh thần cơ bản để giải quyết vấn đề này là: Lấy doanh nghiệp (bên cầu) làm trung tâm; tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan nghiên cứu khoa học (bên cung), để tạo điều kiện cho thị trường KHCN hoạt động, qua đó thúc đẩy KHCN phát triển.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đủ mạnh, đảm bảo cho nền kinh tế có cơ sở nội sinh về KHCN vững mạnh. Kinh nghiệm xây dựng lực lượng cán bộ khoa học ở các nền kinh tế mới CNH ở Đông Á cho thấy, để từng bước xây dựng đội ngũ này, trong giai đoạn đầu quá trình CNH, các chính phủ đã có những giải pháp mạnh về chế độ, chính sách đối với việc thu hút và trọng dụng nhân tài KHCN. Cách thức mà Chính phủ Hàn Quốc thành lập Viện KHCN Hàn Quốc (KIST) năm 1966 và Viện Phát triển Hàn Quốc (KDI) năm 1971 có thể xem là những ví dụ rất điển hình. Vào năm 1966, khi nền kinh tế còn chưa phát triển, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập KIST để làm chỗ dựa thúc đẩy nền công nghiệp định hướng xuất khẩu. Ngay từ đầu, KIST đã tập trung nghiên cứu những đề tài do giới công nghiệp đặt hàng, gắn công việc nghiên cứu với nhu cầu của thị trường - một trong những ví dụ điển hình là nghiên cứu lập đề án xây dựng Công Ty thép Pohang (POSCO) nổi tiếng. Với chính sách trọng dụng nhân tài, Chính phủ đã thu hút gần 30 nhà khoa học là Hàn kiều về nước làm việc, với mức lương cao gấp 3 lần mức lương của vị giáo sư cao nhất Seoul vào thời điểm đó, đảm bảo cho các nhà khoa học ở KIST có cuộc sống “phong lưu” trong tầng lớp trung lưu; tạo môi trường làm việc thuận lợi, bầu không khí học thuật và sáng tạo; đồng thời hợp tác nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học với các nước công nghiệp phát triển (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức…). Đặc biệt, tất cả các tập đoàn kinh tế lớn (chaelbol) của Hàn Quốc đều thành lập các viện nghiên cứu KHCN phục vụ phát triển. Từ kinh nghiệm này, Việt Nam cần khẩn trương xúc tiến xây dựng một số viện nghiên cứu ứng dụng KHCN hiện đại, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo và vườn ươm công nghệ, trong đó ưu tiên xây dựng “V-KIST” phỏng theo mô hình KIST của Hàn Quốc. Đồng thời, ban hành chính sách cụ thể trọng dụng và tôn vinh đội ngũ cán bộ làm công tác KHCN.

3.5. Đổi mới cách thức phát triển kết cấu hạ tầng

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại phải đi trước một bước để tạo ra tiền đề vật chất cho quá trình phát triển nhanh và có hiệu quả. Đây là yếu tố vật chất mang tính chiến lược dài hạn, nhưng đang là khâu yếu ở Việt Nam, bởi vậy, rất cần sự đột phá với quyết tâm cao. Để đảm bảo nguồn vốn cho việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, cần đa dạng hóa các nguồn vốn, hình thức đầu tư, trên cơ sở một chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng có tầm nhìn xa và nhất quán, với hệ thống các danh mục dự án được quy hoạch rõ ràng, công khai.

Từ đặc điểm, vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng và khả năng kinh tế có thể đầu tư, trong thời gian trước mắt, việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cần tuân thủ một số nguyên tắc chủ yếu sau:

Một là, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải đảm bảo tính hiệu quả tổng thể và tầm nhìn xa: Hệ thống kết cấu hạ tầng mang tính mở đường, là khâu đột phá để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội.

Hai là, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải đảm bảo tính đồng bộ, hoàn chỉnh về công nghệ, kỹ thuật, năng lực quản lý, vận hành… thông qua các giải pháp cụ thể:

(i) Nâng cao tính khoa học trong quá trình xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nói chung, quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cũng như nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về quy hoạch; (ii) Mở rộng các hình thức huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thông qua các hình thức BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao), BCC (hợp đồng hợp tác kinh doanh), BTO (xây dựng - chuyển giao - vận hành), BT (xây dựng, chuyển giao), PPP (hợp tác công tư)… hay đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài; (iii) Tập trung ưu tiên xây dựng một số công trình giao thông lớn, các đầu mối giao lưu quốc tế (sân bay, thương cảng, đường cao tốc, đường sắt), các khu đô thị hiện đại, các công trình cung cấp điện, nước...

3.6. Đảm bảo an sinh xã hội

Việc đảm bảo an sinh xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững về mặt xã hội và là điều kiện xã hội cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững về kinh tế. Những nội dung chủ yếu nhất về đảm bảo an sinh xã hội gồm:

(i) Chính sách tạo việc làm và chống thất nghiệp: Việc làm đầy đủ là một trong những chỉ số phản ánh mức độ phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. Giai đoạn đến 2020 được dự báo sẽ diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh, dễ gây ra sự xáo trộn lớn và đột ngột đối với một bộ phận cư dân nông thôn buộc phải chuyển nghề do đất canh tác nông nghiệp chuyển mục đích sử dụng thành đất xây dựng đô thị. Trong tình hình như vậy, cần thực thi những quy định ràng buộc các đơn vị sử dụng đất nông nghiệp chuyển đổi sang đất đô thị và công nghiệp phải giải quyết việc làm và/hoặc chuyển đổi nghề cho những người nông dân có liên quan; (ii) Chính sách chống đói nghèo và tái đói nghèo: Giải pháp căn bản, lâu dài vẫn là hỗ trợ giáo dục, đào tạo nghề cho người nghèo và tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích tăng cường đầu tư và sử dụng lao động là người nghèo; (iii) Các chính sách đảm bảo an ninh, an toàn cuộc sống: Phòng chống và hạn chế thiệt hại do các rủi ro về thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu; ngăn ngừa và chủ động xóa bỏ các loại tội phạm; hỗ trợ những người dễ bị tổn thương; đề cao phẩm giá, sự chân thành, tín nghĩa, xây dựng đời sống xã hội văn minh; (iv) Các chính sách tạo sự đồng thuận xã hội: Xã hội ổn định và đồng thuận có tiềm năng phát triển lớn, có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế bền vững.

Trước mắt, cần có các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Tổ chức mô hình việc làm công, hỗ trợ có thời hạn cho người lao động mất việc. Bảo đảm mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin. Nghiên cứu đổi mới cơ chế tài chính, giá cả dịch vụ công theo hướng thị trường (tính đúng, tính đủ và bảo đảm công khai, minh bạch); đồng thời hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo... Về dài hạn, cần nghiên cứu các chính sách hỗ trợ phát triển tầng lớp trung lưu trở thành tầng lớp chiếm số đông trong xã hội.

3.7. Bảo vệ môi trường sinh thái

Nền kinh tế không thể phát triển nhanh và bền vững nếu môi trường sinh thái bị hủy hoại, bởi lẽ giản đơn là, trong nhiều trường hợp, số dư do sự tăng trưởng kinh tế đem lại đã không đủ bù chi phí để phục hồi môi trường sinh thái bị khai thác quá mức hoặc bị ô nhiễm quá nặng, dẫn đến hậu quả về dài hạn.

Để bảo vệ môi trường sinh thái, cần thực hiện nghiêm ngặt các quy định pháp lý về bảo vệ môi trường; khuyến khích những nghiên cứu và áp dụng vào sản xuất những công nghệ không gây ô nhiễm môi trường, hình thành các ngành, nghề kinh tế mới thân thiện với môi trường; triển khai áp dụng chỉ tiêu thống kê GDP xanh, hạch toán tăng trưởng có tính tới yếu tố môi trường; thực hiện việc đấu thầu quyền khai thác đất và tài nguyên khoáng sản. Hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô…

3.8. Phát triển hợp lý, hài hòa giữa các vùng

Sự hài hòa giữa các vùng trong quá trình phát triển vừa là điều kiện, vừa là sự thể hiện của phát triển bền vững. Trên góc nhìn tổng thể, hệ thống và dài hạn, sự hài hòa trong phát triển giữa các vùng là sự phát triển có hiệu suất cao nhất nhờ khai thác tối ưu lợi thế so sánh của mỗi vùng đặt trong tổng thể lợi ích quốc gia. Vì thế, vai trò điều hòa sự phát triển của Nhà nước đối với sự phát triển hài hòa giữa các vùng có ý nghĩa quyết định. Giải pháp chủ đạo là tạo ra môi trường bình đẳng cho việc tiếp cận các cơ hội phát triển của mọi người dân ở mọi vùng của đất nước. Cùng với các chính sách liên quan tới nâng cao chất lượng dịch vụ công (giáo dục, y tế…), cần đổi mới chế độ quản lý hộ khẩu theo kiểu phân biệt giữa thành thị với nông thôn, tạo ra sự hài lòng về nơi định cư, sinh sống với khả năng lựa chọn đa dạng.

3.9. Mở cửa, hội nhập quốc tế

Cơ cấu thị trường nước ngoài của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam hiện nay khá đa dạng, đa phương, phản ánh sự năng động và mức độ mở cửa của nền kinh tế. Tuy nhiên, một chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế mang tính chỉ đạo xuyên suốt và thống nhất vẫn chưa được thể hiện một cách thực sự rõ nét. Nhìn từ góc độ một giải pháp cơ bản, lâu dài, hội nhập kinh tế quốc tế cần được triển khai ở 3 khía cạnh chủ yếu sau:

Một là, hài hòa hóa các cơ chế, chính sách quản lý các hoạt động kinh tế, trong đó những chuẩn mực quản lý mang tính kỹ thuật thì nên theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Hai là, để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, cần lấy việc du nhập tri thức, công nghệ, kỹ thuật, thiết bị, phương thức kinh doanh... hiện đại của thế giới làm mục tiêu trực tiếp của việc lựa chọn đối tác để có hướng ưu tiên tiếp cận. Tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu là một chỉ tiêu phản ánh thành tựu quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, nhưng sử dụng nguồn ngoại tệ ấy để nhập khẩu những công nghệ - thiết bị - kỹ thuật hiện đại phục vụ quá trình CNH, HĐH một cách có hiệu quả còn là một chỉ tiêu phản ánh thành tựu về kinh tế đối ngoại tốt hơn nhiều. Đã đến lúc phải khẳng định rõ ràng mục tiêu xuất khẩu để nhập khẩu tri thức và công nghệ - kỹ thuật nhằm tăng nhanh tốc độ HĐH nền kinh tế hướng tới đuổi kịp các nước trung bình và tiến tới là các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

Ba là, trong mối quan hệ mật thiết và thống nhất với quan điểm giải pháp mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nêu trên, cần xác định rõ ràng và dứt khoát một chiến lược thị trường (đối tác) cũng như nỗ lực giành và giữ thị phần ở các thị trường đó. Thị trường được ưu tiên sẽ phải là những trung tâm kinh tế và KHCN tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Ngoài ra, việc nằm liền kề một nền kinh tế khổng lồ là Trung Quốc đang đạt đến ngưỡng có sự thay đổi to lớn về cơ cấu cầu (tiêu dùng) cũng đang mở ra những cơ hội trước nay chưa từng có đối với Việt Nam.

Tóm lại, thực chất của đổi mới mô hình phát triển trong điều kiện hiện nay có một số đặc trưng cơ bản sau: Một là, chuyển mạnh phương thức tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc huy động thêm các yếu tố đầu vào sản xuất như lao động, vốn, đất đai, tài nguyên sang phương thức tăng trưởng chủ yếu nhờ vào các yếu tố làm tăng năng suất lao động. Hai là, trong giai đoạn hiện nay, kinh tế thị trường trong nước và quốc tế phát triển sâu rộng hơn, phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn. Sự phát triển kinh tế quốc gia luôn gắn liền với những tác động ngày càng lớn của kinh tế thế giới nên vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô phải được quan tâm thỏa đáng.

Tài liệu tham khảo

1. Amartya Sen, Phát triển là quyền tự do, NXB Thống kê, Hà Nội 2002.

2. Nguyễn Phú Trọng (2006), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.

3. Hội đồng Lý luận Trung ương - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn, Hà Nội, ngày 22/9/2009.

4. Phan Văn Khải (2002), Phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng XHCN, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.

5. Phát triển con người - Từ quan niệm đến chiến lược và hành động, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.

6. Nguyễn Văn Đặng (chủ biên), Phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007.

7. Ngân hàng Thế giới, Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á (Joseph E. Stiglitz và Shahid Yusuf biên tập), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.

8. Oxfam International (1997), Tăng trưởng với công bằng: Chương trình thảo luận về chủ đề xóa đói giảm nghèo, tháng 9/1997.

9. Dani Rodrik (2000), Tư duy mới về phát triển cho thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.

10. He Yongping (Hách Vĩnh Bình), Feng Pengzhi (Phùng Bằng Chí), Trái đất kêu cứu, NXB Thế giới đương đại, 1998.

11 . Kornai János, Hệ thống XHCN, NXB Văn hóa - Thông tin - Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hà Nội 2002; Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do, NXB Tri thức, 2007.

12. Võ Đại Lược (2007), Kinh tế Việt Nam - Đổi mới và phát triển, NXB Thế giới, Hà Nội 2007.

13. Nhiều tác giả, Để kinh tế Việt Nam khởi sắc, NXB Trẻ, 2006.

14. Nhiều tác giả, Tranh luận để đồng thuận, NXB Tri thức - Tạp chí Tin học và Đời sống, 2006.

15. Lương Xuân Quỳ, Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 2006.

16. Robert Wade, Điều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và vai trò của Chính phủ trong CNH ở Đông Á, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.

17. Hà Huy Thành, Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.

18. Vũ Tuấn Anh (chủ biên), Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994.

19. Trần Văn Thọ, Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại châu Á - Thái Bình Dương, NXB Thành phố Hồ chí Minh - Thời báo Kinh tế Sài Gòn - VAPEC, 1997; Việt Nam 40 năm qua và những năm tới: Cần một nền kinh tế thị trường định hướng phát triển, Tạp chí Thời đại mới, số 33 - tháng 7/2015.

20. Viện Thông tin Khoa học xã hội, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường, Hà Nội 1998.

21. Todd G. Buchholz , Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối, NXB Tri thức, 2007.

22. Bùi Tất Thắng (chủ biên), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2006; Phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam - thời kỳ 2011 - 2020, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2010.

23. Bruno Amoroso (2001), On Globalization - Capitalism in the 21st Century, Roskilde, Denmark.

24. Angus Maddison (2001), The World Economy: Amillennial Perspective.

*1 Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.

*2 Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.

*3 Trần Văn Thọ, Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại châu Á - Thái Bình Dương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn - VAPEC, 1997; tr. 60 - 61.