Với những quy định thông thoáng, sau 4 năm đi vào hoạt động, Luật Doanh nghiệp (DN) đã tạo ra một môi trường kinh doanh sôi động, khơi dậy mạnh mẽ nguồn lực trong dân. Tại hội nghị tổng kết 4 năm thi hành Luật DN vừa được tổ chức tại Hà Nội, nhiều chuyên gia đã đưa ra nhận định: cũng như Chỉ thị 100 trước đây trong nông nghiệp, Luật DN đã tạo ra những biến đổi to lớn. Chỉ thị 100 trước đây chỉ là sự sửa đổi về chính sách nhưng đã đưa nước ta từ chỗ thiếu gạo trở thành nước xuất khẩu gạo.Với Luật DN đã khơi dậy tinh thần kinh doanh trong xã hội.
Số lượng DN tăng nhanh
Kể từ năm 2000 số lượng DN mới đăng ký liên tục tăng nhanh với tốc độ chưa từng th y. Cho đến hết tháng 9/2003 đã có hơn 70.000 DN mới đăng ký, bình quân mỗi năm tăng 20.000 DN (trong 9 năm từ 1991-1999 có 45.000 DN ra đời) nâng tổng số DN đăng ký của khu vực tư nhân ở nước ta lên khoảng 120.000 DN. Cùng với 15.000 hợp tác xã, 13.000 trang trại, 2,4 triệu hộ kinh doanh cá thể Công thương nghiệp và 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá, khu vực kinh tế dân doanh thực sự là của nhân dân, do dân đầu tư đã bừng nở và ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt năng động sáng tạo.
Ông Vũ Quốc Tuấn, Chuyên gia nghiên cứu cao cấp của Chính phủ khẳng định, qua bốn năm thi hành Luật DN càng th y sức dân là vô tận, thể hiện rõ qua sự phát triển của các loại hình DN trong tất cả các lĩnh vực, các vùng của đất nước. Số vốn đăng ký của các DN trong bốn năm lên đến 145 tỷ đồng cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ. So sánh với 9 năm trước thì số vốn đăng ký giai đoạn 2000-2003 cao gấp hơn 4 lần.
Theo Bộ KH&ĐT, từ khi Luật DN có hiệu lực đội ngũ DN dân doanh đã phát triển mạnh mẽ chưa từng có cả về quy mô và đã tham gia vào hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Nhờ đó đã huy động được ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư trực tiếp phát triển kinh doanh. Về cơ bản công dân được kinh doanh những gì pháp luật không c m, giải phóng được tư duy sáng tạo về ý tưởng và phương thức tổ chức kinh doanh, tạo ra sự thay đổi tích cực trong quan niệm xã hội về DN và doanh nhân. Luật DN đã giải phóng và phát triển được sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế, góp phần đáng kể vào phục hồi tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu. DN dân doanh cũng là nguồn cung chủ yếu tạo công ăn việc làm cho người lao động. Luật DN cũng tạo ra thể chế kinh tế thị trường cao, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng. Trong quá trình sản xuất kinh doanh các DN cũng đang phấn đấu theo hướng phát triển bền vững.
Cùng với đó là quản lý nhà nước, bộ máy hành chính đã đổi mới một bước. Từ chỗ quan niệm khả năng của chúng ta tới đâu thì mở ra tới đó. Còn bây giờ thì khác, yêu cầu của cuộc sống của DN tới đâu bộ máy hành chính phải đáp ứng. Không phải là xin cho mà đã chuyển thành hậu kiểm. Phương thức kiểm tra kiểm soát là chủ yếu đang từng bước được thay bằng phương thức hợp tác, tạo điều kiện... Tuy nhiên chưa phải đã hết những khó khăn từ ngay phía các cơ quan chức năng.
Tăng nhanh về số lượng nhưng các DN vẫn còn nhỏ và phát triển không đồng đều cả về vùng lãnh thổ và ngành, nghề kinh doanh. Có tới 95% DN thuộc quy mô nhỏ và vừa, trong đó khoảng 50% thuộc quy mô nhỏ hoặc cực nhỏ. Những khó khăn chưa phải đã hết.
Khó khăn nằm ở ngoài ... luật!
Theo kết quả khảo sát của Tổ công tác thi hành Luật DN thì hiện tượng cố tình làm sai Luật DN hiện vẫn còn phổ biến. Trước khi có được tấm giấy phép kinh doanh, chủ DN phải trải qua không ít những vướng mắc, vừa tốn kém thời gian, vừa bị lỡ cơ hội làm ăn, vừa tốn chi phí, công sức... Nổi lên là những ềcửa ảiế sau : lo thủ tục đăng ký kinh doanh; lo khắc dấu...
Về thủ tục đăng ký kinh doanh, trong luật DN quy định rõ ràng thời gian cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (ĐKKD) từ khi cơ quan đăng ký kinh doanh nhận được hồ sơ xin đăng ký là 15 ngày. Vậy nhưng từ luật đến thực tế lại là cả một quãng đường xa. Thực tế cho thấy cơ quan cấp giấy phép ĐKKD đặt ra khá nhiều yêu cầu khác ngoài quy định như phải nộp thêm xác nhận nhân thân, địa điểm kinh doanh, lập điều lệ công ty theo mẫu trong khi đây là hợp đồng dân sự giữa các nhà đầu tư, hoặc tỏ ý nghi ngờ, đòi kiểm tra lại khả năng đầu tư kinh doanh của DN, nhưng thời hạn điều tra là bao nhiêu thì chỉ có họ mới biết? Theo ềkinh nghiệmể của một số chủ DN mới thành lập thì muốn nhanh chóng có giấy phép thì không gì nhanh hơn là “chịu khó” bỏ ra “chi phí mềm” và hãy coi đó là Luật ...bất thành văn.(?!) Với tình trạng phải đi lại nhiều lần, chi phí để có được giấy phép kinh doanh không còn đơn giản ở mức 100- 200.000 đồng nữa mà đã cao hơn gấp hàng chục lần.
Về thủ tục khắc dấu, từ trước đến nay Bộ Công an là nơi cấp và quản lý con dấu cho các doanh nghiệp. Nếu không có dấu thì coi như hoạt động bất hợp pháp. Nhưng để có được con dấu theo đúng thời hạn thì DN cũng phải đi lại bên công an đến mỏi chân. Dù giấy chứng nhận ĐKKD đã được công chứng nhưng phòng thụ lý hồ sơ vẫn yêu cầu DN phải nộp kèm bản gốc để đối chiếu. Khi đã có trong tay giấy phép khắc dấu DN phải đi đến cơ sở khắc dấu do phía Công an chỉ định.Và thế là lại đến lượt phía cơ sơ khắc dấu gây phiền hà, DN lại phải "chi phí" nếu không muốn bị ngâm quá lâu. Tổ công tác thi hành Luật DN đã tính toán thời gian để có được con dấu lên đến trên 15 ngày, với tổng chi phí gần một triệu đồng. Đây đó vẫn còn những tình trạng phục hồi các loại giấy phép con làm xấu đi môi trường kinh doanh.
Để Luật DN ngày càng phát huy hiệu quả tạo động lực phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế xã hội, sắp tới đây ngoài việc khắc phục những hạn chế trong quá trình thực thi Luật DN, Chính phủ sẽ sớm ban hành một chỉ thị tiếp tục đẩy mạnh việc cải thiện môi trường kinh doanh và thực hiện Luật DN. Nhiều người hi vọng đây sẽ là cú huých để Luật DN thu được kết quả to lớn như thành tựu trong việc thực hiện Chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp trước đây.
Sau 4 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể đã:
- Nộp ngân sách tăng từ 6,4% năm 2001 lên 7% năm 2002. Quý I năm 2003 nộp khoảng 11% tổng số thu, tăng 28,7 % so với cùng kỳ đạt 26,8% chỉ tiêu do Quốc hội đề ra.
- Đầu tư mới và bổ sung vốn 144.000 tỷ đồng, tương đương 9,5 tỷ USD lớn hơn đầu tư nước ngoài trong cùng thời kỳ này.
- Tạo thêm gần 2 triệu chỗ làm việc mới đưa tổng số lao động làm việc ở khu vực này lên khoảng 6 triệu người, chiếm 17% lực lượng lao động.
- Đóng góp 48,5 % kim ngạch xuất khẩu, trừ dầu thô, của nước ta trong năm 2002.
TBTC 5/11/25003