Từ năm 1976 đến năm 1981, Việt Nam đã vay được từ 3 tổ chức này hơn 300 triệu USD để phục vụ cho việc khôi phục cán cân thanh toán và thực hiện một số dự án trọng điểm. Tuy nhiên đến năm 1985, do không thanh toán được nợ quá hạn với IMF, quyền vay vốn của Việt Nam từ tổ chức này bị đình chỉ, kéo theo việc không được vay vốn tại 2 tổ chức còn lại, thời kỳ này quan hệ giữa Việt Nam và các tổ chức này chỉ dừng ở mức đối thoại chính sách và trợ giúp kỹ thuật.
Năm 1993, những nỗ lực phục hồi và đổi mới nền kinh tế của Việt Nam đã tạo tín hiệu tốt để cộng đồng quốc tế có cách nhìn mới về Việt Nam . Trước nỗ lực thanh toán các khoản nợ quá hạn và những cam kết cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam, làm cơ sở cho việc thành lập Nhóm hỗ trợ huy động vốn để thanh toán nợ quá hạn cho Việt Nam. Tháng 10/1993, cùng với phần viện trợ không hoàn lại từ các quốc gia Pháp, Nhật, Úc, Thuỵ Sỹ, Canada, Phần Lan... khoản vay bắc cầu từ các ngân hàng thương mại quốc tế mà đứng đầu là Ngân hàng Ngoại thương Pháp và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Nhật Bản đã giúp Việt Nam thanh toán được toàn bộ nợ quá hạn với IMF. Quyền vay vốn của Việt Nam tại IMF được phục hồi, ngay sau đó WB và ADB cũng nối lại quan hệ tín dụng với Việt Nam .
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 10 năm kể từ khi bình thường hoá quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế này, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ to lớn về tài chính và kỹ thuật cho quá trình đổi mới nền kinh tế. Trong 10 năm đó, tổng số cam kết tài trợ của IMF, WB và ADB cho Việt Nam lần lượt là 1,07 tỷ USD; 4,1 tỷ USD và 2,5 tỷ USD thông qua hàng chục chương trình và dự án trong nhiều lĩnh vực. Ngoài ra, còn phải kể đến hàng trăm khoản trợ giúp kỹ thuật giúp tăng cường năng lực thể chế cho hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế.
Cụ thể, IMF và WB đã đưa ra những khuyến nghị giúp Việt Nam đạt được những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô lành mạnh, đối phó với những tác động bất lợi từ bên ngoài, từ đó giúp tạo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Các khoản hỗ trợ cho Việt Nam như khoản vay Dự phòng (SBA), Điều chỉnh hệ thống (STF), Điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF), Tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (PRGF) của IMF; các khoản vay Tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAC) và Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo (PRSC) của WB đều nhấn mạnh vào mục tiêu đạt được ổn định kinh tế vĩ mô và đưa ra những biện pháp nhằm đạt được mục tiêu này. Về mặt tài chính, các khoản vay này đã góp phần hỗ trợ cho cán cân thanh toán của Việt Nam , cũng như cho việc thực hiện các dự án quan trọng của quốc gia. Ngoài ra, IMF cũng tích cực giúp Việt Nam giải quyết nợ quá hạn của Chính phủ qua Câu lạc bộ Paris và nợ thương mại qua Câu lạc bộ London .
Về xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đóng góp rõ rệt nhất cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm vừa qua không thể không kể đến sự hỗ trợ từ WB và ADB. Các khoản vay có giá trị lớn, dài hạn với lãi suất ưu đãi và thời gian ân hạn dài là một nguồn vốn quý báu giúp Việt Nam đầu tư vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng trọng điểm của đất nước. Cả 2 tổ chức đều tập trung vào các lĩnh vực có ưu tiên cao của đất nước như nông nghiệp và phát triển nông thôn, thuỷ lợi, năng lượng, cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn, giao thông, y tế và giáo dục. Các dự án của ADB và WB đã đóng góp tích cực và có hiệu quả vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, phát triển các dịch vụ xã hội, tăng cường thể chế và phát triển nguồn nhân lực, quản lý tài nguyên thiên nhiên, từ đó đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. 10 năm qua, trong tổng số các khoản tín dụng cho Việt Nam, WB dành 16% cho lĩnh vực giao thông, 20% cho lĩnh vực nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên và 17% cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Trong tổng số phần hỗ trợ của mình, ADB dành 28% cho lĩnh vực nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên, 26% cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội và 24% cho lĩnh vực giao thông.
Về xoá đói giảm nghèo, từ sau năm 2000, mục tiêu này đã được cụ thể hoá trong nhiều chương trình và dự án của 3 tổ chức, như PRGF của IMF, PRSC của WB và một loạt các khoản vay hỗ trợ khu vực nông thôn, các vùng nghèo khó, dự án tạo công ăn việc làm và giảm thiểu sự mất cân bằng xã hội về mặt xã hội và vùng địa lý, các dự án y tế, giáo dục... của WB và ADB. Các chương trình, dự án này đã góp phần giúp Việt Nam đat được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo. Gần đây, việc tập trung trực tiếp hơn vào mục tiêu xoá đói giảm nghèo của các tổ chức này được thể hiện rõ trong việc xây dựng Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS). Chiến lược này được xây dựng trên cơ sở phối hợp của nhiều cơ quan hữu quan của Chính phủ, các tổ chức xã hội, các nhà tài trợ trong đó có IMF, WB và ADB; cụ thể hoá các mục tiêu về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của Việt Nam trong kỳ trung hạn, các biện pháp cần thực hiện để đạt được mục tiêu đã đề ra và các nhiệm vụ cần hoàn thành. CPRGS cũng là cơ sở để kêu gọi trợ giúp và đầu tư từ các nhà tài trợ cho quá trình xoá đói giảm nghèo của Việt Nam.
Trong từng lĩnh vực cải cách, IMF thường đóng vai trò cơ quan giúp Việt Nam xây dựng những chiến lược tổng thể và cung cấp trợ giúp kỹ thuật cho quá trình thực hiện, chẳng hạn như việc xây dựng chiến lược tổng thể cải cách khu vực ngân hàng, hay những cam kết về lộ trình cải cách thương mại làm định hướng cho quá trình tự do hoá thương mại của Việt Nam. WB lại tham gia trực tiếp hơn vào các lĩnh vực cải cách như cải cách ngân hàng và cải cách doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời cũng là cơ quan đứng ra phối hợp các nhà tài trợ khác trong lĩnh vực này... Chính nhờ sự phối hợp giữa các tổ chức mà trong thời gian qua, sự trợ giúp của 3 tổ chức cho nỗ lực cải cách của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực cải cách thương mại và ngân hàng. Việt Nam đã bãi bỏ các hạn chế định lượng đối với việc nhập khẩu hàng hoá, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng được cơ cấu lại về cơ bản, giúp các ngân hàng lành mạnh hoá tình hình tài chính và tăng cường chất lượng hoạt động tín dụng.
TBTC 7/11/2003