Nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ giai đoạn 2016 - 2020

Nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ giai đoạn 2016 - 2020 25/01/2016 14:48:00 11224

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ giai đoạn 2016 - 2020

25/01/2016 14:48:00

Dự báo bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020

Trong giai đoạn 5 năm tới (2016 - 2020), kinh tế thế giới và khu vực dự báo phục hồi chậm, không đồng đều và còn nhiều khó khăn. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn là trung tâm phát triển năng động của kinh tế thế giới với vai trò ngày càng tăng của các nền kinh tế mới nổi khác ngoài Trung Quốc (Ấn Độ, Philippines…). Trong nước, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được các kết quả bước đầu, kinh tế dần lấy lại được đà tăng trưởng và phục hồi, các cân đối vĩ mô ổn định hơn, lạm phát được kiềm chế. Tuy nhiên, bối cảnh trong nước cũng còn bộc lộ một số điểm bất lợi, có khả năng tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tới. Kết cấu hạ tầng còn yếu kém; chất lượng nguồn nhân lực còn chậm cải thiện; tiếp cận vốn trên thị trường quốc tế, bao gồm cả nguồn vốn ODA, vốn gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khó khăn hơn, chi phí cao hơn. Bên cạnh đó, việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do đã có và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cùng với việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) trong năm 2015 mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức trong việc kiểm soát dòng vốn, ổn định kinh tế vĩ mô.

Trong bối cảnh đó, mục tiêu tổng quát trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2020 là: “Phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”. Theo đó, nhiệm vụ là ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng ở mức hợp lý, đi kèm với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chủ yếu tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng là cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại hệ thống tài chính - ngân hàng, trọng tâm là cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng; cơ cấu lại doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Trong đó, đến năm 2020, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP.

Chiến lược Tài chính đến năm 2020 đã đặt ra mục tiêu xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế. Theo đó, mục tiêu tổng thu từ thuế và phí giai đoạn 2016 - 2020 là 21 - 22% GDP; trong đó thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) đến năm 2020 đạt trên 80% tổng thu ngân sách nhà nước (năm 2015 đặt ra mục tiêu đạt 70%). Đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia; cân đối ngân sách tích cực, giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước; duy trì dư nợ chính phủ và nợ quốc gia trong giới hạn an toàn; tăng cường dự trữ nhà nước đáp ứng kịp thời các nhu cầu đột xuất của nền kinh tế. Trong đó, giảm mức bội chi ngân sách nhà nước xuống dưới 4% GDP trong giai đoạn 2016 - 2020. Nợ công (bao gồm nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) đến năm 2020 không quá 65% GDP; dư nợ nước ngoài quốc gia không quá 50% GDP; dư nợ chính phủ không quá 55% GDP.

Giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ giai đoạn 2016 - 2020

Một là, nên có sự phối hợp chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) trong việc xác định mục tiêu kinh tế vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung cho mục tiêu đó.

Mặc dù việc lựa chọn các mục tiêu kinh tế vĩ mô rất quan trọng đối với quá trình phối hợp chính sách song các nỗ lực để tuân thủ các mục tiêu đã đề ra cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả phối hợp chính sách. Sự phối hợp chính sách phải hướng tới xây dựng các mục tiêu chung để giảm thiểu các tác động tiêu cực đến thực hiện các mục tiêu của các ngành, lĩnh vực khác.

Trong giai đoạn tới, trên cơ sở thực trạng và diễn biến của kinh tế trong nước cũng như quốc tế, cần xác định rõ mục tiêu kinh tế vĩ mô là: Tập trung tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, trong đó chú ý đến các vấn đề về lạm phát và các cân đối vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thay vì mục tiêu hướng tới tăng trưởng nhanh như giai đoạn trước đây. Theo đó, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên có sự phối hợp trong việc xác định mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung cho mục tiêu đó. Đồng thời, Chính phủ nên xem xét đến việc chuyển đổi khung mục tiêu chính sách theo hướng thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát linh hoạt nhằm hướng CSTK và CSTT vào mục tiêu chung.

Trên cơ sở các mục tiêu chung, NHNN và Bộ Tài chính sẽ cùng tham gia xác định khung mục tiêu chính sách cho giai đoạn trung hạn, tạo thế chủ động và linh hoạt trong quá trình phối hợp để đạt mục tiêu, xây dựng kế hoạch tài chính - tiền tệ tổng thể cho từng năm trong đó các vấn đề về bội chi ngân sách, đầu tư công, hiệu quả đầu tư cần phải được tính toán và xem xét cụ thể trên các vấn đề có liên quan tới CSTT như tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng... để đảm bảo việc thực thi 2 chính sách được đồng bộ và hiệu quả.

Hai là, phải nhất quán giữa các mục tiêu chính sách ngắn hạn và dài hạn trong phối hợp CSTK và CSTT.

Về ngắn hạn, CSTK và CSTT cần phối hợp chặt chẽ nhằm đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức dưới một con số và hỗ trợ tăng trưởng, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, ngăn chặn tình trạng phá sản của doanh nghiệp.

Về dài hạn, CSTK phải hướng tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ tăng trưởng bền vững. Trong đó, thu chi ngân sách và tín dụng nhà nước phải gắn chặt với mục tiêu ổn định tiền tệ. CSTT phải kiên trì với mục tiêu ổn định lạm phát, vấn đề kiểm soát mức độ tăng giá cần phải được đặt lên hàng đầu không chỉ trong thời kỳ có lạm phát cao mà ngay cả thời kỳ lạm phát thấp nhằm tạo lập niềm tin cho thị trường, xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Theo đó, cần tính toán và kiểm soát được lượng cung tiền (tổng phương tiện thanh toán M2) trên cơ sở lạm phát mục tiêu, tốc độ tăng trưởng GDP và các yếu tố khác. Chủ động sử dụng các công cụ của CSTT để kiểm soát cung tiền, tiến tới chuyển từ kiểm soát M2 sang điều hành dựa vào mục tiêu trung gian khác là lãi suất.

Ba là, thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, thực hiện minh bạch đối với các kỳ vọng chính sách cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách.

Việc hình thành một cơ sở dữ liệu chung là rất quan trọng đối với công tác quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Bởi nếu tình trạng thông tin chưa đầy đủ và kịp thời, thiếu chính xác thì sẽ ảnh hưởng tới việc ra quyết định. Trong thời gian tới, cần sớm khắc phục tình trạng thông tin chưa kịp thời, không đầy đủ, thiếu chính xác làm cho việc ra quyết định thiếu căn cứ đầu vào đầy đủ. Đồng thời cần hoàn thiện và nâng cao tính pháp lý của các quy định về chế độ báo cáo thông tin, cơ chế chia sẻ thông tin.

Đối với CSTT, việc hoạch định và thực thi chính sách phải đảm bảo duy trì tính ổn định của kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ điều tiết lãi suất thị trường theo hướng kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua đồng tiền, kiểm soát tỷ giá, huy động vốn và cung cấp vốn cho thị trường; phát triển hệ thống ngân hàng tạo cơ sở thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững qua đó tạo điều kiện tăng nguồn thu và huy động vốn để bù đắp thâm hụt cho ngân sách nhà nước.

Đối với CSTK, cần nỗ lực tập trung các khoản thu, chi ngân sách nhà nước nhằm đạt được mục tiêu ổn định nền kinh tế, phát triển nền kinh tế vĩ mô bền vững, xác lập cơ sở kinh tế cho việc thực thi CSTT có hiệu quả, kiểm soát lạm phát, giữ sức mua của đồng tiền ổn định và phát triển thị trường tiền tệ.

Bốn là, tiến tới thực hiện khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu và nâng cao kỷ luật tài khóa.

Với việc xác định mục tiêu phối hợp tài khóa - tiền tệ giai đoạn tới tập trung vào việc xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thì việc áp dụng chính sách khuôn khổ lạm phát mục tiêu và nâng cao kỷ luật tài khóa là lựa chọn thích hợp đối với CSTT - CSTK của Việt Nam.

Trong điều kiện của Việt Nam, để có thể áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu trong tương lai cần phối hợp đồng bộ các nhóm giải pháp sau: (i) Nhóm giải pháp đổi mới thể chế: Xây dựng Luật Ngân hàng Trung ương Việt Nam thay thế Luật NHNN theo hướng đổi mới NHNN thành Ngân hàng Trung ương hiện đại; (ii) Nhóm giải pháp kỹ thuật: Hoàn thiện phương pháp xác định chỉ số lạm phát (CPI); (iii) Nhóm giải pháp hỗ trợ: Đẩy mạnh công tác truyền thông về lạm phát mục tiêu; nâng cao năng lực dự báo; phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính; củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng; nâng cao tính minh bạch của CSTT; phối hợp tốt giữa CSTT và CSTK; hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng linh hoạt hơn.

Đối với CSTK, cần tăng cường kỷ luật tài khóa, cải thiện tính minh bạch, công khai trong quy trình ngân sách, mở rộng hình thức và nội dung công khai; tăng cường trách nhiệm giải trình. Để thực hiện được giải pháp này cần hình thành các quy tắc tài khóa được thiết kế theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; có chế tài đảm bảo tuân thủ các quy tắc tài khóa đề ra, qua đó từng bước tăng cường kỷ luật tài khóa.

Năm là, phối hợp CSTK - CSTT phải tính đến sự phối hợp với các chính sách vĩ mô khác, đặc biệt là các biện pháp giám sát thận trọng vĩ mô.

Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng và được quan tâm nhiều trong bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng nhiều vào các khu vực thương mại, các hiệp định thương mại tự do (AEC, TPP, Việt Nam - EU...), nhằm hạn chế sự biến động của các dòng vốn vào - ra , đồng thời tạo sự ổn định tài chính trong nền kinh tế./.

Viện CL&CSTC

Liên kết website