Sau kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa XV, cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị xem xét bãi bỏ quy định mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc với mô tô xe máy. Vì hiện nay, loại hình bắt buộc này không phát huy được vai trò, mục địch của việc đảm bảo quyền lợi, khi có tai nạn xảy ra, thủ tục bồi thường quá phức tạp và gây khó khăn cho người thụ hưởng.
Phù hợp với xu thế chung và thông lệ quốc tế
Trả lời kiến nghị của cử tri, tại văn bản số 10946/BTC-QLBH gửi Đoàn ĐBQG tỉnh Hà Giang, Bộ Tài chính cho biết: Việc quy định mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc đối với mô tô xe máy là cần thiết và đúng quy định pháp luật, đáp ứng nhu cầu thực tiễn nhằm bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội chung, phù hợp với xu thế chung trên thế giới.
Về cơ sở pháp lý, theo Bộ Tài chính: Việc mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc đối với chủ xe mô tô, xe máy được căn cứ vào quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật Giao thông đường bộ, cụ thể:
Theo quy định tại khoản 1, Điều 8, Luật Kinh doanh bảo hiểm: “1. Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và DN bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lơi ích công cộng và an toàn xã hội chung”. Theo quy định tại khoản 2, Điều 8, Luật Kinh doanh bảo hiểm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là 1 trong 4 loại bảo hiểm bắt buộc.
Theo quy định tại khoản 18, Điều 3, Luật Giao thông đường bộ, xe cơ giới gồm xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện)…Theo quy định tại khoản 2, điều 58, Luật Giao thông đường bộ: “2. Người lái xe khi điều khiển phương tiện phải mang theo giấy tờ sau:…d) Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới”.
Bộ Tài chính cũng cho biết, theo số liệu thống kê, số vụ tai nạn giao thông do mô tô 2 bánh, xe gắn máy, xe máy chiếm tỉ trọng khoảng 70% trong tổng số vụ tai nạn giao thông đường bộ. Hậu quả tai nạn giao thông đã gây thiệt hại không chỉ đối với nạn nhân (về sức khỏe, tính mạng, tài sản) mà còn đối với cả chủ xe (chi trả bồi thường, thiệt hại về gián đoạn kinh doanh, chi phí pháp lý…), gây ảnh hưởng chung đến toàn xã hội. Do đó, nhằm phát huy vai trò, ý nghĩa xã hội và tính chất nhân đạo của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, từ năm 1988, Chính phủ cũng đã quy định loại hình bảo hiểm này là loại hình bảo hiểm bắt buộc và lần lượt ban hành Nghị định 30/HĐBT; Nghị định số 115/1997; Nghị định số 103/2008 và gần nhất là Nghị định số 03/2021 của Chính phủ. Theo số liệu thống kê, số tiền bồi thường bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới từ năm 2017 đến năm 2020 là 3.440 tỉ đồng.
Về kinh nghiệm triển khai tại các nước trên thế giới, xuất phát từ lợi ích chung của xã hội cũng như của từng thành viên trong cộng đồng, bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được quy định đầu tiên tại Anh quốc năm 1930 và hiện nay được triển khai hầu hết các nước trên thế giới, được đánh giá là một trong số các giải pháp hữu hiệu hỗ trợ tài chính giúp cho chủ xe và người bị tai nạn khắc phục thiệt hại nhanh chóng ổn định cuộ số khi không may xảy ra tai nạn giao thông, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Cắt giảm thủ tục, tăng cường công tác tạm ứng, giải quyết bồi thường bảo hiểm
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tế thực hiện thời gian qua, nhằm cắt giảm thủ tục, tăng cường công tác tạm ứng bồi thường, giải quyết bồi thường bảo hiểm và tạo thuận lợi về thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, trong đó bao gồm cả xe mô tô 2 bánh, xe gắn máy cho người dân, ngày 15/1/2021, Chính phủ bao hành Nghị định số 03 về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, thay thế Nghị định 103/2008, theo đó, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định cụ thể:
Tăng cường công tác tạm ứng bồi thường: Nghị định số 03/2021 quy định rõ trong mọi trường hợp, trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo về vụ tai nạn, doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng bồi thường đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng.
Nghị định số 03/2021 cũng quy định cụ thể mức tạm ứng bồi thường lên đến 70% mức bồi thường bảo hiểm theo quy định/ 1 người/1 vụ đối với trường hợp tử vong; 50% mức bồi thường bảo hiểm theo quy định/1 người/1 vụ đối với trường hợp tổn thương bộ phận trường hợp đã xác định được vụ tai nạn thuộc phạm vi bồi thường thiệt hại: được điều trị cấp cứu.
Cắt giảm hồ sơ bồi thường, đẩy mạnh công tác giải quyết bồi thường: Nghị định 03/2021 đã cắt giảm hồ sơ, tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của DN bảo hiểm trong giải quyết bồi thường bảo hiểm như: Cắt giảm 2/5 tài liệu chứng minh thiệt hại về sức khỏe, tính mạng so với quy định trước đây; Quy định DN bảo hiểm chỉ phải thu thập các tài liệu này trong các vụ án gây tử vong đối với bên thứ ba và hành khách; Bổ sung quy định biên bản giám định xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất do DN bảo hiểm lập được thống nhất giữa DN bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm. Quy định này ngoài việc cắt giảm hồ sơ, tài liệu, rút ngắn thời gian giải quyết bồi thường còn tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của DN bảo hiểm; Ngoài ra, để đẩy nhanh tiến độ giải quyết bồi thường, bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Công an chỉ đạo các lực lượng Cảnh sát cung cấp bảo sao các tài liệu liên quan đến các vụ tai nạn giao thông trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả điều tra.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới: Nghị định 03/2021 đã bổ sung nghĩa vụ của DN bảo hiểm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm thực hiện bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới (từ lúc giao kết, thực hiện cho đến khi không may xảy ra tai nạn) như: Tích hợp tính năng tra cứu Giấy chứng nhận bảo hiểm trên mạng thông tin điện tử, Cổng TTĐT của DN bảo hiểm cho phép cơ quan hữu quan và bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm tra cứu, xác minh thời hạn và hiệu lực bảo hiểm của Giấy chứng nhận bảo hiểm; Khi nhận được thông báo về tai nạn, trong vòng 01 giờ đồng hồ, DN bảo hiểm phải hướng dẫn bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, chủ xe cơ giới các biện pháp đảm bảo an toàn, đề phòng hạn chế thiệt hại về người và tài sản, hướng dẫn hồ sơ, thủ tục yêu cầu bồi thường bảo hiểm; trong vòng 24 giờ đồng hồ tổ chức thực hiện việc giám định tổn thất xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất làm căn cứ giải quyết bồi thường bảo hiểm…
H.Thọ