4.1. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì có các loại nghị quyết, thông tư liên tịch sau đây:
1) Thông tư liên tịch giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Các thông tư này thường được ban hành để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
2) Thông tư liên tịch giữa Toà án nhân dân tối cao với Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Thông tư liên tịch giữa Bộ, cơ quan ngang Bộ với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các thông tư này được ban hành để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng và những vấn đề khác liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó.
3) Thông tư liên tịch giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Các thông tư này được ban hành để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về việc tổ chức chính trị - xã hội đó tham gia quản lý nhà nước.
4) Nghị quyết liên tịch giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Các nghị quyết này được ban hành để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về việc tổ chức chính trị - xã hội đó tham gia quản lý nhà nước.
4.2. Trình tự soạn thảo nghị quyết, thông tư liên tịch
Việc soạn thảo nghị quyết, thông tư liên tịch được tiến hành theo các bước sau đây:
1) Trước hết, các cơ quan có liên quan được giao soạn thảo nghị quyết, thông tư liên tịch cần tổ chức buổi họp để thảo luận, phân công cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo văn bản.
2) Cơ quan , tổ chức được phân công soạn thảo nghị quyết, thông tư liên tịch cần phải nghiên cứu kỹ các quy định trong các văn bản có liên quan như luật, pháp lệnh, nghị định ... để xác định rõ cần phải hướng dẫn những nội dung gì tại nghị quyết , thông tư liên tịch, vì các văn bản đó là cơ sơ pháp lý để soạn thảo nghị quyết, thông tư đó. Cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải khẳng định được sự cần thiết phải ban hành nghị quyết, thông tư liên tịch. Ngoài việc chứng minh sự cần thiết ban hành văn bản, cơ quan tổ chức chủ trì còn phải xác định được phạm vi và đối tượng điều chỉnh của thông tư, nghị quyết liên tịch, tức là những nội dung mà thông tư, nghị quyết liên tịch cần hướng dẫn. Những nội dung cơ bản thường được trình bày theo phần, mục, khoản với một cơ cấu hợp lý. Ngôn ngữ pháp lý phù hợp với hình thức văn bản. Thông thường ngôn ngữ pháp lý trong nghị quyết, thông tư hướng dẫn được thể hiện mềm dẻo hơn ngôn từ trong luật, pháp lệnh, nghị định ... vì các văn bản này mang tính chất hướng dẫn. Do vây, cần thể hiện sao cho rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu.
3) Tổ chức việc rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Để thực hiện được nhiệm vụ này, cơ quan, tổ chức soạn thảo phải tập hợp văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề cần phải soạn thảo nghị quyết, thông tư liên tịch và đánh giá thực trạng các văn bản pháp luật đó để làm cơ sở cho việc đưa ra các quy định phù hợp, thống nhất, đồng bộ với các văn bản đó.
4) Tiến hành soạn thảo văn bản. Trong quá trình soạn thảo văn bản cần lưu ý:
- Nội dung hướng dẫn của nghị quyết, thông tư liên tịch không được quy định những nội dung mới mà luật, pháp lệnh, nghị định ... chưa quy định. Không được hướng dẫn trái với nội dung của các văn bản nêu trên. Cần phải hướng dẫn cho rõ, cụ thể hơn và nếu cần thì nên có ví dụ để minh hoạ.
Ngoài ra, trong quá trình soạn thảo nếu thấy cần thiết thì cơ quan, tổ chức được phân công soạn thảo có thể phối hợp với các cơ quan hữu quan đến các Bộ, ngành, địa phương để tìm hiểu thêm về một số tình hình thực tế về vấn đề mà cơ quan, tổ chức quan tâm để quy định hoặc hướng dẫn bảo đảm tính hiệu quả.
4) Sau khi có dự thảo, cơ quan, tổ chức được phân công chủ trì soạn thảo phải có biện pháp thích hợp để lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức cùng phối hợp soạn thảo nghị quyết, thông tư liên tịch và các cơ quan, ngành hữu quan khác có liên quan. Thông thường, khi có dự thảo lần thứ nhất, cơ quan, tổ chức được phân công chủ trì soạn thảo mời các cơ quan cùng phối hợp soạn thảo văn bản đến họp để lấy ý kiến.
Đối với dự thảo thông tư liên tịch giữa Bộ, cơ quan ngang Bộ với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được lấy ý kiến các thành viên Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thành viên Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong trường hợp này, đại diện Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là thành viên của Tổ soạn thảo cho nên các cơ quan này có trách nhiệm tổ chức lấy kiến của các thành viên Hội đồng thẩm phán, thành viên Uỷ ban Kiểm sát dưới các hình thức hợp lý.
5) Sau khi đã có ý kiến của các cơ quan nêu trên, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tập hợp ý kiến và chỉnh lý dự thảo. Trong quá trình tập hợp ý kiến cần phân ra hai loại ý kiến:
- Các loại ý kiến cơ quan, tổ chức soạn thảo có thể tiếp thu để chỉnh lý văn bản;
- Các loại ý kiến cần phải cân nhắc, xem xét thêm hoặc không thể tiếp thu để chỉnh lý văn bản.
6) Sau khi chỉnh lý dự thảo, các cơ quan, tổ chức được phân công soạn thảo văn bản cần tổ chức cuộc họp với các cơ quan, tổ chức đã được phân công phối hợp soạn thảo thông tư, nghị quyết liên tịch và các cơ quan hữu quan khác một lần nữa để xem xét việc chỉnh lý có phù hợp với các ý kiến đã đóng góp hay chưa. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo không tiếp thu hết tất cả các ý kiến mà các cơ quan hữu quan đã đóng góp, thì phải có lý giải rõ ràng và phải đưa ra quan điểm, lập luận để bảo vệ chính kiến của mình. Tuy nhiên , nếu trong quá trình thảo luận tại cuộc họp các cơ quan, tổ chức tham dự đã đưa ra các quan điểm đúng, rõ ràng để bảo vệ ý kiến của mình đã đóng góp và cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo cho rằng những ý kiến đó hợp lý thì phải tiếp thu để chỉnh lý. Trong trường hợp vẫn còn các ý kiến khác nhau thì các thành viên trong tổ soạn thảo phải báo các với Thủ trưởng của cơ quan, tổ chức mình để xin ý kiến.
7) Cơ quan, tổ chức được phân công soạn thảo có trách nhiệm báo cáo với Thủ trưởng của cơ quan, tổ chức phụ trách trực tiếp về quá trình soạn thảo, nội dung và những vướng mắc về các quan điểm còn khác nhau giữa các cơ quan hữu quan. Thủ trưởng của cơ quan, tổ chức được phân công chủ trì soạn thảo nghị quyết, thông tư liên tịch tổ chức cuộc họp với các Thủ trưởng của các cơ quan, tổ chức phối hợp soạn thảo các văn bản đó để trao đổi các vấn đề còn có ý kiến khác nhau trong quá trình soạn thảo các văn bản nêu trên.
8) Sau khi các cơ quan hữu quan đã thống nhất ý kiến về các nội dung đã được quy định trong dự thảo thì Thủ trưởng cơ quan, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cùng ký nghị quyết, thông tư liên tịch.