Thị trường trái phiếu xu hướng hội nhập

Thị trường trái phiếu xu hướng hội nhập 14/12/2016 15:25:00 3638

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Thị trường trái phiếu xu hướng hội nhập

14/12/2016 15:25:00

  THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP

Vụ Tài chính ngân hàng - Bộ Tài chính

  Hơn 20 năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đổi mới, cải cách để phát triển kinh tế xã hội, được thể hiện bằng những kết quả cụ thể trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, ngoại giao. Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức về cơ bản kinh tế đã giữ được mức tăng trưởng cao và ổn định; về đối ngoại đã thực hiện hội nhập trong khu vực và trên thế giới với vị thế ngày càng cao. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường vốn, thị trường trái phiếu đã góp phần ngày càng quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu huy động và phân bổ các nguồn lực cho đầu tư phát triển và thể hiện rõ quan điểm hội nhập của Đảng và Chính phủ. Trong phạm vi bài viết này sẽ tập trung đánh giá kết quả đạt được của thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian qua gắn với hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực thị trường vốn, thị trường trái phiếu.

1. Hợp tác trong lĩnh vực thị trường vốn, thị trường trái phiếu và những kết quả đạt được

Sau khi trở thành thành viên của WTO, thị trường vốn, thị trường trái phiếu Việt Nam đã từng bước hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường khu vực và quốc tế. Trong khuôn khổ hợp tác tài chính, Việt Nam là thành viên của diễn đàn các thị trường mới nổi (EMF), diễn đàn thị trường trái phiếu Châu Á (ABMF); là thành viên cộng đồng kinh tế ASEAN, ASEAN+3, tham gia Sáng kiến thị trường trái phiếu Châu Á (ABMI), tham gia diễn đàn thị trường trái phiếu mới nổi (Germlock). Đồng thời, Bộ Tài chính đã nhận được hỗ trợ kỹ thuật từ ABMI, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), Đại sứ quán Anh để hoàn thiện thể chế chính sách và nâng cao khả năng quản lý, giám sát trong lĩnh vực thị trường trái phiếu.

Với những hỗ trợ và hợp tác nêu trên, Bộ Tài chính đã thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển thị trường trái phiếu theo đúng Lộ trình phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu và đạt được những kết quả tích cực cả về thể chế chính sách, quy mô của thị trường và cơ sở nhà đầu tư, cụ thể là:

Thứ nhất, thị trường trái phiếu Việt Nam đã phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho NSNN, các ngân hàng chính sách, chính quyền địa phương và doanh nghiệp.

Trong giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường đạt bình quân 21%/năm, trong đó thị trường TPCP đạt 33%/năm; Chính phủ, chính quyền địa phương, các ngân hàng chính sách và các doanh nghiệp đã huy động được 1.336.179 tỷ đồng thông qua thị trường trái phiếu. Tính đến cuối năm 2015, dư nợ thị trường trái phiếu tương đương 24,14% GDP 2015, trong đó dư nợ thị trường TPCP tương đương 16,2% GDP 2015, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp tương đương 3,4% GDP.

  Thứ hai, khuôn khổ pháp lý về phát triển thị trường trái phiếu được ban hành đồng bộ, phù hợp với từng giai đoạn thị trường, phù hợp với các cam kết hội nhập, theo xu hướng và thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khi tham gia huy động vốn trên thị trường.

  Trong giai đoạn 2011 đến nay, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành 04 Nghị định, 2 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành 9 thông tư hướng dẫn về phát hành TPCP, TP được CP bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý hiện hành đã cho phép Chính phủ, chính quyền địa phương, các NHCS và các doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật và phương thức phát hành theo xu hướng và thông lệ quốc tế, nâng cao khả năng huy động vốn của các chủ thể trên thị trường. Bộ Tài chính đã tập trung hoàn thiện khung khổ pháp lý để phát triển thị trường TPCP trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho NSNN đồng thời đóng vai trò là thị trường chuẩn cho hệ thống tài chính. Theo đó, công tác phát hành TPCP đã được cải tiến phù hợp với tình hình thị trường, theo xu hướng và thông lệ quốc tế, tăng khả năng huy động vốn cho NSNN như: (i) rút ngắn thời gian từ khâu phát hành đến niêm yết, giao dịch trái phiếu Chính phủ (ii) thiết lập hệ thống các nhà tạo lập thị trường trên thị trường sơ cấp (iii) tăng cường công khai minh bạch thông tin về thị trường trái phiếu Chính phủ. Một số kỹ thuật và nghiệp vụ mới như: phát hành thêm TPCP ngay sau phiên đấu thầu, phát hành TPCP có kỳ trả lãi dài hơn hoặc ngắn hơn (long-short coupon), phát hành trái phiếu không trả lãi định kỳ qua thực tế triển khai thực hiện đã cho thấy rất hiệu quả, hấp dẫn được nhà đầu tư và phù hợp với thị trường, góp phần quan trọng vào kết quả huy động vốn thông qua phát hành TPCP.

  Thứ ba, về phát triển cơ sở nhà đầu tư:

  Bên cạnh việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, việc tái cơ cấu cơ sở nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu đã được chú trọng thực hiện theo hướng ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn bằng việc phát hành đều đặn trái phiếu Chính phủ kỳ hạn dài từ 10 năm trở lên cho các công ty bảo hiểm. Theo đó, cùng với sự phát triển của thị trường bảo hiểm và thực hiện các giải pháp tái cơ cấu nhà đầu tư, tỷ lệ nắm giữ TPCP của các NHTM đã giảm và tỷ lệ nắm giữ của các công ty bảo hiểm tăng dần. Hiện tại, các NHTM chỉ nắm giữ 77% khối lượng TPCP trong khi các công ty bảo hiểm nắm giữ 16% khối lượng TPCP. Ngoài ra, khung pháp lý về phát triển các nhà đầu tư dài hạn trên thị trường vốn, thị trường trái phiếu đã được nghiên cứu và trình Chính phủ ban hành để phát triển hệ thống nhà đầu tư dài hạn trên thị trường (Nghị định về quỹ hưu trí tự nguyện).

Thứ tư, về phát triển sản phẩm:

Trước năm 2011, trên thị trường trái phiếu chỉ có sản phẩm trái phiếu truyền thống, giai đoạn 2011-2015 cùng với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới trên thị trường trái phiếu đã được chú trọng để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. Bên cạnh trái phiếu có lãi suất cố định còn có trái phiếu lãi suất thả nổi, trái phiếu không trả lãi định kỳ. Đối với TPCP, đến nay đã phát hành đa dạng các kỳ hạn từ tín phiếu kho bạc dưới 52 tuần cho đến kỳ hạn dài 10 năm, 15 năm, 20 năm, 30 năm.

  Thứ năm, về tổ chức thị trường:

  Thị trường trái phiếu đã được tổ chức phù hợp với từng giai đoạn phát triển, theo xu hướng và thông lệ quốc tế, tập trung phát hành theo phương thức đấu thầu, tập trung đăng ký, lưu ký tại Trung tâm lưu ký chứng khoán và niêm yết giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán để tăng thanh khoản của trái phiếu. Quy trình nghiệp vụ về phát hành TPCP đã được cải tiến theo hướng rút ngắn thời gian thanh toán, đăng ký, lưu ký và niêm yết, giao dịch từ T+3 xuống T+2 tạo điều kiện tăng tính thanh khoản của trái phiếu và tăng cường tính công khai minh bạch trên thị trường. Hệ thống các thành viên đấu thầu trên thị trường trái phiếu đã được thiết lập và hoạt động một cách có hiệu quả, đóng vai trò là nhà đầu tư nòng cốt trên thị trường trái phiếu. Các hoạt động trao đổi, đối thoại chính sách và cập nhật thông tin thị trường được diễn ra thường xuyên.

  2. Định hướng hội nhập và phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian tới

Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục thực hiện cải cách trong lĩnh vực thị trường vốn, thị trường trái phiếu, từng bước đưa thị trường này trở thành kênh thu hút và cung ứng vốn trung và dài hạn chủ đạo cho nền kinh tế. Để làm được điều đó, về phía Chính phủ và Bộ Tài chính đã và đang triển khai những biện pháp chủ yếu sau đây:

Một là, tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn cho mọi thành phần kinh tế, giữ vững niềm tin của các nhà đầu tư đối với chính sách của Chính phủ Việt Nam.

Hai là, kết hợp hài hoà các chính sách kinh tế với việc tổ chức quản lý hợp lý để duy trì cấu trúc vốn hợp lý của nền kinh tế, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh quá trình sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tổng công ty nhà nước lớn, các tập đoàn, các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước để đa dạng hoá hình thức sở hữu, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động, thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn.

Bốn là, hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống chính sách để thị trường vốn trở thành kênh cung ứng vốn quan trọng của nền kinh tế. Phát triển hệ thống trung gian tài chính, mở rộng cơ sở nhà đầu tư trong đó đặc biệt chú trọng phát triển các nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường.

Năm là, từng bước tái cơ cấu thị trường trái phiếu Chính phủ; phát triển hệ thống các nhà tạo lập thị trường và nâng cao tính thanh khoản trên thị trường trái phiếu chính phủ để hình thành đường cong lợi tức chuẩn đối với trái phiếu Chính phủ, làm nền tảng để định hướng và phát triển các cấu phần khác của thị trường tài chính, thị trường vốn. Từng bước xây dựng thị trường định mức tín nhiệm để hình thành các chuẩn mực đánh giá mức độ tín nhiệm của các chủ thể kinh tế, giúp thị trường và nhà đầu tư đánh giá đúng về năng lực của tổ chức phát hành để ra quyết định đầu tư phù hợp.

Sáu, từng bước hài hoà hoá các chính sách của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới theo lộ trình cam kết hội nhập và các Hiệp định song phương, đa phương mà Việt Nam đã tham gia để nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường vốn, thị trường trái phiếu nói riêng hội nhập nhanh hơn, bền vững hơn với khu vực và quốc tế.

Trên cơ sở các định hướng về hội nhập nêu trên, trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới để phát triển thị trường trái phiếu tập trung vào những giải pháp cụ thể sau:

  + Về khung khổ pháp lý và chính sách: tiếp tục rà soát và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để phát triển thị trường trái phiếu, tăng cường tính công khai minh bạch trên thị trường, phát triển các sản phẩm mới phù hợp để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư phù hợp với sự phát triển thị trường và thông lệ quốc tế, trong đó tập trung vào phát triển thị trường TPCP để nâng cao khả năng huy động vốn của NSNN và phát triển thị trường TPDN để hỗ trợ các DN huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu.

+ Về phát triển cơ sở nhà đầu tư: Thực hiện các giải pháp để phát triển nhà đầu tư dài hạn trên thị trường trái phiếu thông qua (i) khuyến khích việc thành lập quỹ hưu trí tự nguyện để tăng cầu đầu tư dài hạn trên thị trường trái phiếu (ii) kiến nghị NHNN xem xét, bỏ các quy định về tỷ lệ giới hạn đầu tư vào TPCP, TPDN đối với các TCTD (iii) rà soát, bổ sung các chính sách thuế để khuyến khích đầu tư vào TPCP (iv) nghiên cứu, ban hành các công cụ phòng ngừa rủi ro để thủ hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường trái phiếu (v) đổi mới cơ chế đầu tư của BHXH để tăng nguồn vốn đầu tư của BHXH vào trái phiếu.   

+ Về tổ chức điều hành thị trường: Hoàn thiện cơ sở hạ tầng để phát triển thị trường trái phiếu theo hướng hiện đại, rút ngắn thời gian từ khâu phát hành đến niêm yết, giao dịch trái phiếu. Nghiên cứu xây dựng Trung tâm Thông tin về trái phiếu doanh nghiệp. Tập trung phát hành TPCP kỳ hạn dài để kéo dài danh mục nợ Chính phủ đồng thời thực hiện các giải pháp để tái cơ cấu danh mục nợ Chính phủ.

+ Về tái cơ cấu cơ sở hàng hóa: Phát triển đa dạng các sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư và tăng khả năng huy động vốn qua thị trường trái phiếu.

+ Phát triển thị trường TPDN: Để tạo điều kiện thuận lợi cho các DN huy động vốn thông qua kênh phát hành trái phiếu, giảm bớt áp lực vốn dài hạn từ hệ thống các TCTD.

Trong quá trình cải cách và phát triển thị trường trái phiếu nêu trên, Bộ Tài chính mong muồn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ, phối hợp của các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới, các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài để thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển ngày càng bền vững và hiệu quả./.