Thị trường chứng khoán Việt Nam tuổi 20

Thị trường chứng khoán Việt Nam tuổi 20 29/07/2020 10:07:00 6793

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Thị trường chứng khoán Việt Nam tuổi 20

29/07/2020 10:07:00

Hai mươi năm qua, từ một trung tâm giao dịch chứng khoán với 2 doanh nghiệp niêm yết, đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có tới hơn 1.600 doanh nghiệp niêm yết, đăng ký giao dịch trên 2 sở giao dịch với giá trị vốn hóa trên 4 triệu tỷ đồng, tương đương với 65% GDP. Trong đó, Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định vị trí khởi nguồn và đầu tàu, chiếm gần 80% giá trị vốn hóa toàn thị trường và là nơi tập trung niêm yết của hầu hết các doanh nghiệp lớn. 

Sau 20 năm hình thành và phát triển, đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh mẽ từ một thị trường sơ khai, non trẻ đã trở thành một thị trường có quy mô đáng kể (so với GDP) trong khu vực.

Từ xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán…

Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán được xem là dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng khung khổ pháp lý cho thị trường chứng khoán. Trên cơ sở đó, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành (thời kỳ này, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ). Các văn bản pháp lý này đã bước đầu tạo khung khổ pháp lý cho việc khai trương và đi vào vận hành thị trường chứng khoán ở Việt Nam từ tháng 7/2000 với sự ra đời của Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2003, sau một thời gian thị trường đi vào hoạt động, Nghị định  48/1998/NĐ-CP bộc lộ nhiều hạn chế do được xây dựng khi chưa có thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán. Những bất cập trong khung khổ pháp lý cùng với một số nguyên nhân khác là những rào cản khiến thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam không có nhiều chuyển biến mang tính bứt phá, khó phát triển được. Trên cơ sở kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn quản lý hoạt động của thị trường, ngày 28/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP thay thế Nghị định 48/1998/NĐ-CP. Nghị định 144/2003/NĐ-CP cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo khung pháp lý tương đối đồng bộ về các hoạt động trên thị trường như phát hành, niêm yết, kinh doanh, giao dịch, công bố thông tin, xử lý vi phạm...

Tuy nhiên, trước yêu cầu của thị trường đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực pháp lý của văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đồng thời để tạo được lòng tin cho nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài, thu hút được dòng vốn tạo đà phát triển cho thị trường, khắc phục mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản pháp luật có liên quan, thì vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu xây dựng, ban hành Luật Chứng khoán. Theo đó, Luật Chứng khoán đã được xây dựng và được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành 01/7/2007. Đây là dấu mốc quan trọng nhất trong quá trình xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán, kể từ khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động. 

Luật Chứng khoán năm 2006 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng, bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt động công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả, giúp thị trường chứng khoán phát huy vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Nếu như năm 2006, thị trường chứng khoán chỉ có khoảng 200 công ty niêm yết với giá trị vốn hóa khoảng 221.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 22,7% GDP năm 2006), thì đến cuối năm 2019 đã có 1.662 công ty niêm yết và đăng ký giao dịch với giá trị vốn hóa thị trường đạt khoảng 4.384 nghìn tỷ đồng (tương đương 72,6% GDP năm 2019). Giá trị huy động vốn của doanh nghiệp thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp năm 2019 đạt đạt 102,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với cả năm 2018. Giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 36,6 tỷ USD (tương đương 847.033 tỷ đồng). 

Mặc dù đạt được những kết quả đáng kể, nhưng do thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình hình thành và phát triển, có nhiều yếu tố mới phát sinh chưa được Luật Chứng khoán điều chỉnh như phát hành chứng khoán riêng lẻ, phát triển một số loại chứng khoán mới... Bên cạnh đó, quá trình triển khai thực hiện Luật đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, chưa thực sự phù hợp với thực tế cần sửa đổi, bổ sung như quy định về công bố thông tin, nghiệp vụ của tổ chức kinh doanh chứng khoán, hành vi vi phạm và xử lý vi phạm.... 

Để khắc phục những hạn chế này, đồng thời dần đưa thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập sâu rộng với các nước, ngày 24/11/2010, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2011. Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo lập khung khổ pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ điều chỉnh toàn diện hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán ngày càng trở thành kênh thu hút vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế; giảm khoảng cách chênh lệch giữa kênh tín dụng ngân hàng với kênh thị trường vốn, nhằm tăng cường vốn đầu tư xã hội. 

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn có những hạn chế, bất cập mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là khung khổ pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa hoàn thiện. Nội dung một số điều khoản của Luật còn chưa  rõ ràng, cụ thể, dẫn đến cách hiểu khác nhau và gây khó khăn trong áp dụng; một số điều khoản của Luật không còn hợp lý hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; Luật chưa quy định một số vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi cần phải thể chế hóa bằng Luật; một số điều khoản chưa tương thích với thông lệ quốc tế tốt, chưa phù hợp với yêu cầu và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế (như quy định về chào bán chứng khoán; công ty đại chúng; tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán; các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn thị trường chứng khoán; tổ chức kinh doanh chứng khoán; thẩm quyền của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm...)

Đồng thời, một số quy định của Luật Chứng khoán 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung 2010 đã không còn thống nhất, đồng bộ với quy định liên quan tại các văn bản quy phạm pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung như: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo…

Trước những sửa đổi của các Luật, Bộ luật nêu trên, Luật Chứng khoán còn thiếu những quy định mang tính đặc thù áp dụng cho lĩnh vực chứng khoán, để bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư và hoạt động trên thị trường chứng khoán

Nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong đó có vấn đề tái cơ cấu thị trường tài chính, tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, việc sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán là cần thiết. Ngày 26/11/2019, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, thay thế Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 và Luật số 62/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán. Luật Chứng khoán 2019 đã được sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện, phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ của quốc tế, tạo cơ sở, nền tảng pháp lý cho giai đoạn phát triển mới của thị trường chứng khoán. Sau khi có hiệu lực, Luật Chứng khoán 2019 sẽ góp phần cải thiện chất lượng hàng hóa, chất lượng các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, thu hút vốn đầu tư của nhà đầu tư trong và ngoài nước trên thị trường chứng khoán, nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường, tăng tính công khai, minh bạch, bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt động bền vững, an toàn, chuyên nghiệp, hiện đại. Không chỉ vậy, Luật Chứng khoán năm 2019 còn tạo cơ sở để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tăng niềm tin của thị trường. Qua đó, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế và các tầng lớp nhân dân tham gia đầu tư và hoạt động trên thị trường chứng khoán, tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, góp phần nâng tầm thị trường chứng khoán Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trong tình hình mới...

… đến những con số ấn tượng và thành tựu nổi bật của thị trường chứng khoán

Được khai trương hoạt động vào ngày 20/7/2000 và tổ chức phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000, Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh – tiền thân của Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) – là thị trường giao dịch chứng khoán tập trung đầu tiên của Việt Nam. 

Qua 20 năm hoạt động, có tổng cộng 483 mã cổ phiếu, 09 chứng chỉ quỹ đóng, 478 trái phiếu, 04 chứng chỉ quỹ ETF, 165 chứng quyền có bảo đảm tham gia niêm yết mới và 103 mã cổ phiếu, 06 chứng chỉ quỹ, 81 trái phiếu và 89 chứng quyền có bảo đảm hủy niêm yết. Tổng giá trị chứng khoán được mua bán trao đổi qua HOSE sau 20 năm đạt hơn 7,7 triệu tỷ đồng (hơn 339 tỷ chứng khoán). Tính đến ngày 30/6/2020, HOSE có 380 mã cổ phiếu niêm yết, 03 chứng chỉ quỹ đóng, 04 chứng chỉ quỹ ETF, 43 trái phiếu và 76 mã chứng quyền có bảo đảm đang niêm yết. Tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt trên 2,8 triệu tỷ đồng, chiếm trên 90% giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu cả nước, tương đương 57% GDP. Có 74 công ty chứng khoán thành viên với hơn 2,3 triệu tài khoản của nhà đầu tư.

Các công ty niêm yết trên Sở là các công ty lớn, đầu ngành, có hoạt động kinh doanh tăng trưởng ổn định. 03 ngành có tỷ trọng cao nhất trên HOSE bao gồm ngành Tài chính, Bất động sản và Tiêu dùng thiết yếu chiếm hơn 80% giá trị vốn hóa toàn thị trường. Có 23 doanh nghiệp có vốn hóa trên 1 tỷ USD niêm yết trên HOSE trong đó có10 ngân hàng, khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của HOSE trong việc thu hút niêm yết và giao dịch cổ phiếu của các công ty lớn của nền kinh tế. Top 10 doanh nghiệp nộp thuế nhiều nhất theo thống kê của Tổng cục Thuế năm 2018 có đến 5 công ty niêm yết bao gồm GAS, VCB, TCB, VNM, BID.

Theo lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, việc ra đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức đưa thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động có tổ chức với mục tiêu xây dựng một kênh huy động và phân bổ vốn trung và dài hạn hiệu quả, phục vụ phát triển kinh tế đất nước với 7 thành tựu nổi bật của thị trường chứng khoán trong 20 năm qua.

Thứ nhất, tăng trưởng mạnh về quy mô, góp phần phát triển hệ thống tài chính quốc gia theo hướng cân bằng và bền vững hơn, trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế; Thứ hai, cấu trúc và thể chế thị trường ngày càng hoàn thiện; Thứ ba, đóng góp quan trọng vào tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nâng cao tính minh bạch và năng lực quản trị công ty; Thứ tư, loại hình định chế, sản phẩm – dịch vụ ngày càng đa dạng, hướng theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế; Thứ năm, thị trường chứng khoán Việt Nam tham gia mạnh mẽ vào quá trình hội nhập quốc tế; Thứ sáu, hình thành đội ngũ nhà đầu tư chuyên nghiệp; Thứ bảy, hệ thống công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu ngày càng được chú trọng đầu tư, góp phần phát triển thị trường chứng khoán một cách minh bạch và hiện đại.

Tuy nhiên, sau 20 năm vận hành thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn non trẻ, khoảng cách với các Sở trong khu vực vẫn còn khá xa. Quy mô vốn hóa thị trường Việt Nam mới gần bằng 1/5 thị trường Phillippines, 1/7 thị trường Indonesia và 1/8 thị trường Thái Lan. Quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP còn khiêm tốn, cơ cấu giữa thị trường vốn còn mất cân đối. 

Theo phương hướng phát triển giai đoạnh 2020- 2025, thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, cân bằng giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn; hỗ trợ tích cực quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, quy mô thị trường cổ phiếu 120% GDP vào năm 2025; Số lượng công ty niêm yết đến năm 2020 tăng 20% so với năm 2017.

Cùng với đó, hoàn thiện bộ máy, mô hình hoạt động và quản trị theo thông lệ quốc tế, nâng cao năng lực tổ chức, vận hành thị trường. Hỗ trợ quá trình thành lập Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam theo lộ trình và mô hình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện phân bảng thị trường theo tiêu chí về quy mô, chất lượng hoạt động, thanh khoản.

Đặc biệt, cùng với việc đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường chứng khoán; triển khai các sản phẩm mới, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, thì mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao minh bạch, chất lượng công ty niêm yết, hướng đến chất lượng quản trị công ty trong các công ty niêm yết của Việt Nam đạt mức bình quân ASEAN-6 đang được lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và HOSE đặc biệt quan tâm.

20 năm chưa phải là dài nhưng cũng đủ để nhìn lại chặng đường hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam với những bước tiến vượt bậc, từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi; đưa thị trường chứng khoán Việt Nam thành điểm đến an toàn, tin cậy, hiệu quả của các tổ chức tài chính quốc tế, các nhà đầu tư lớn trong khu vực và toàn cầu; góp phần từng bước phát triển các trung tâm tài chính tầm cỡ khu vực, quốc tế ở nước ta trong nền kinh tế thị trường nói chung và hệ thống tài chính nói riêng./. 

Hoài Thu