Ngày 29/11/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 158/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản và ngày 16/10/2017, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 38/2017//TT-BTNMT quy định phương pháp quy đổi từ giá tính thuế tài nguyên để xác định giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (quy định chi tiết khoản 5 Điều 69 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản).
Theo đó, quy trình quản lý thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được quy định cụ thể, như sau:
- Khi doanh nghiệp đấu thầu mỏ thành công hoặc được phê duyệt cấp quyền khai thác khoáng sản (KTKS), cơ quan Tài nguyên Môi trường sẽ thực hiện tính tiền cấp quyền KTKS và doanh nghiệp thực hiện khai thác mỏ phải nộp vào NSNN.
- Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh là cơ quan tiếp nhận, kiểm tra, xác nhận tính pháp lý, mức độ đầy đủ của các hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản do tổ chức, cá nhân nộp; tổ chức tính và trình Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo thẩm quyền cấp phép khai thác khoáng sản.
Sau khi Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo thẩm quyền cấp phép khai thác khoáng sản; Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh gửi văn bản phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản cho Cục Thuế địa phương nơi có khu vực khoáng sản được cấp phép khai thác. Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được tính cho toàn bộ trữ lượng mỏ, có thể nộp một lần hoặc phân bổ theo số năm khai thác theo quyết định cấp quyền khai thác khoáng sản.
- Cục Thuế địa phương nơi có khu vực khoáng sản được cấp phép khai thác căn cứ quyết định tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản của cơ quan Tài nguyên Môi trường, ra thông báo cho tổ chức, cá nhân được cấp quyền KTKS và tổ chức quản lý, thu nộp vào NSNN. Thông báo nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thông báo hàng năm. Trong trường hợp giá tính thuế tài nguyên có thay đổi đến mức UBND tỉnh phải điều chỉnh bảng giá, tiền cấp quyền KTKS cũng được xác định lại.
- Tổ chức, cá nhân được cấp quyền KTKS nộp tiền theo Thông báo của Cục thuế địa phương. Việc thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thực hiện theo đúng quy định về thu và quản lý các khoản thu NSNN.
- Về hạch toán, phân bổ thu NSNN: Đối với các mỏ do Trung ương cấp phép, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được điều tiết 70% cho ngân sách Trung ương, 30% cho ngân sách địa phương; Đối với các mỏ do UBND cấp tỉnh cấp phép, điều tiết 100% cho ngân sách địa phương.
Từ năm 2014 đến nay, việc tổ chức thu cấp quyền KTKS theo quy định của Luật Khoáng sản và các văn bản hướng dẫn đã góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả của hoạt động khai thác khoáng sản đồng thời đóng góp một khoản thu không nhỏ vào NSNN.
Tuy nhiên, thực tế qua thanh tra cho thấy phổ biến tại các địa phương đều có số nợ tiền cấp quyền KTKS... Nguyên nhân do các doanh nghiệp khai thác khoáng sản chưa chấp hành nghiêm các quy định của Nhà nước, bên cạnh đó có nguyên nhân về cơ chế, chính sách, việc xác định và quản lý thu tiền cấp quyền KTKS đã bộc lộ một số tồn tại, vướng mắc. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Vướng mắc về khoản thu tiền cấp quyền KTKS từ khi có quy định của Luật Khoáng sản đến thời điểm quản lý thu theo quy định tại Nghị định số 203/2013/NĐ-CP:
Luật khoáng sản số 60/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011, tuy nhiên ngày 28/11/2013, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 203/2013/NĐ-CP và có có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/01/2014.
Tại các quyết định về phê duyệt thu tiền cấp quyền KTKS của Bộ Tài nguyên Môi trường và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (đối với các doanh nghiệp được cấp giấy phép khai thác mỏ trước ngày Nghị định số 203/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành) đều tạm thời chưa thu đối với số tiền cấp quyền KTKS phát sinh từ tháng 07/2011 đến hết năm 2013. Thực chất đây là khoản phải nộp theo quy định, tuy nhiên, việc xác định và truy thu là rất khó khả thi. Việc cho miễn nộp tiền cấp quyền KTKS trong giai đoạn này thuộc thẩm quyền xử lý của Quốc hội.
Thứ hai: Vướng mắc về giá tài nguyên- căn cứ xác định tiền cấp quyền KTKS:
Theo qui định tại Nghị định 203, UBND tỉnh/TP có trách nhiệm ban hành bảng giá tài nguyên, giá này là căn cứ để tính tiền cấp quyền cũng như tính thuế tài nguyên khai thác trên địa bàn. Tuy nhiên, Bộ Tài nguyên Môi trường không có hướng dẫn cụ thể, thống nhất dẫn đến trong thực tế triển khai thực hiện có những vướng mắc, cụ thể:
- Mỗi địa phương ban hành bảng giá theo cách thức riêng, không có sự thống nhất về tên loại tài nguyên, đơn vị tính. Đa số các địa phương ban hành bảng giá căn cứ giá sản phẩm tài nguyên bán ra trên địa bàn. Nhiều tỉnh không ban hành giá tính thuế đối với tài nguyên nguyên khai, dẫn đến khó khăn trong việc xác định tiền cấp quyền KTKS.
- Chênh lệch giá giữa các địa phương khá lớn, gây mất công bằng giữa các doanh nghiệp và gây thất thu ngân sách;
- Tỷ lệ quy đổi giữa sản phẩm tài nguyên bán ra và tài nguyên nguyên khai không đầy đủ, không thống nhất, nhiều trường hợp không quy đổi được dẫn đến mặc dù có giá tính thuế tài nguyên nhưng không xác định được giá tính tiền cấp quyền KTKS (Ví dụ như việc xác định mức thu tiền cấp quyền KTKS đối với các mỏ đá trắng tại tỉnh Yên Bái)
Nhằm khắc phục tồn tại này, ngày 12/5/2017, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 44/2017/TT-BTC quy định về khung giá tính thuế tài nguyên đối với nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau. Trong quá trình xây dựng Thông tư qui định Khung giá tính thuế tài nguyên đối với nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính đã phối hợp với Tổng cục Địa chất Khoáng sản- Bộ Tài nguyên Môi trường xây dựng hệ thống danh mục tài nguyên thống nhất về tên gọi, chủng loại, bao gồm đầy đủ danh mục tài nguyên nguyên khai và khung giá (giá tối thiểu - giá tối đa) cho từng loại tài nguyên. Qui định tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC đã đảm bảo khắc phục được tình trạng tên gọi không thống nhất, giảm khoảng cách về giá tính thuế tài nguyên giữa các địa phương và có qui định giá đối với tài nguyên nguyên khai phục vụ việc tính tiền cấp quyền KTKS.
Tuy nhiên theo phản ánh của một số doanh nghiệp KTKS và một số địa phương, giá tính thuế tài nguyên quy định tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC là cao so với mặt bằng chung.
Thứ ba: Chưa có qui định xử lý nợ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với các trường hợp doanh nghiệp có mỏ giấy phép đã hết thời hạn, trả lại giấy phép khai thác khoáng sản hoặc giấy phép bị thu hồi, còn tồn đọng không có khả năng thu và chưa có hướng xử lý dẫn đến việc các cơ quan Thuế không thu được nợ nhưng không xử lý được các khoản nợ không có khả năng thu, ảnh hưởng đến kết quả hoàn thành chỉ tiêu thu nợ và đánh giá thi đua của cơ quan Thuế các cấp.
Thứ tư: Chưa qui định rõ trách nhiệm và thẩm quyền xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Cụ thể, một số doanh nghiệp KTKS gặp khó khăn do thiên tai, bão lụt, ảnh hưởng đến sản xuất, đã nộp đơn đề nghị giãn, gia hạn nộp tiền cấp quyền KTKS nhưng do không xác định rõ cơ quan nào có thẩm quyền xử lý nên có sự đùn đẩy trách nhiệm giữa cơ quan Thuế và cơ quan Tài nguyên Môi trường, không giải quyết và trả lời dứt điểm, gây bức xúc cho doanh nghiệp.
Thứ năm: Ngoài những vấn đề nêu trên, một số doanh nghiệp còn phản ánh số tiền cấp quyền phải nộp quá cao so với thực tế do kết quả thăm dò trữ lượng mỏ chưa chính xác, đề nghị được điều chỉnh giảm.
Nguyên nhân là do trước khi có qui định về thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản dựa vào trữ lượng khai thác, việc tổ chức thăm dò, đánh giá trữ lượng khoáng sản đề nghị cấp quyền khai thác khoáng sản chưa chính xác, có xu hướng khai tăng trữ lượng để thực hiện các mục đích khác (ví dụ vay vốn ngân hàng tương ứng với quy mô Mỏ được cấp phép).
Từ thực trạng nhưng tồn tại, khó khăn vướng mắc trong công tác quản lý thu cấp quyền KTKS như đã nêu trên; để nâng cao hiệu qủa công tác quản lý, thu tiền cấp quyền KTKS cần thực hiện một số giải pháp khắc phục như sau:
Về các qui định pháp luật: Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 203/2013/NĐ-CP, trong đó bổ sung qui định xử lý nợ tiền thu tiền cấp quyền đối với các trường hợp doanh nghiệp trả mỏ, doanh nghiệp bị thu hồi mỏ, doanh nghiệp hết hạn khai thác mỏ, doanh nghiệp phá sản... Qui định rõ ràng và thống nhất về tỷ lệ qui đổi từ giá sản phẩm tài nguyên bán ra về giá tài nguyên nguyên khai để có căn cứ xác định giá tính tiền cấp quyền KTKS.
Đồng thời, qui định rõ trách nhiệm và thẩm quyền xử lý các vướng mắc liên quan đến việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, theo đó, Bộ Tài nguyên Môi trường là cơ quan ban hành qui định và chỉ đạo việc xác định số tiền cấp quyền KTKS phải là đơn vị chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan trình Chính phủ xử lý các vấn đề vướng mắc và kiến nghị của doanh nghiệp về số tiền phải nộp, gia hạn, miễn giảm,...
Bộ Tài nguyên Môi trường cần đề nghị Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến xử lý chính thức đối với khoản tiền cấp quyền khai thác khoáng sản tạm thời chưa thu đối với giai đoạn từ thời điểm ngày hiệu lực của Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 đến thời điểm ngày hiệu lực của Nghị định số 203/2013/NĐ-CP.
Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên Môi trường cần có biện pháp quản lý sản lượng khai thác đầy đủ, chính xác để tránh thất thu tiền cấp quyền KTKS đồng thời tránh thất thu thuế tài nguyên./.
Ngọc Thịnh