Bảo vệ người tố cáo - Thực trạng và giải pháp

Bảo vệ người tố cáo - Thực trạng và giải pháp 28/04/2017 14:42:00 7768

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Bảo vệ người tố cáo - Thực trạng và giải pháp

28/04/2017 14:42:00

Tố cáo là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp Việt Nam năm 1992 và tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân…” và “Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo…”. Có thể nói tố cáo của công dân là một kênh đặc biệt quan trọng giúp cơ quan nhà nước tiếp cận thông tin, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật Việt Nam đã thể chế hoá Hiến pháp bằng cách ghi nhận quyền của người tố cáo nói chung và người tố cáo tham nhũng nói riêng tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Các quy định pháp luật hiện hành nhìn chung chỉ mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể và còn nằm phân tán trong nhiều văn bản với hiệu lực pháp lý khác nhau; như: Luật Tố cáo năm 2011; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012; Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015 và các văn bản hướng dẫn kèm theo; Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 mà Việt Nam là thành viên chính thức của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Công ước này yêu cầu mỗi quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp thích hợp căn cứ vào pháp luật quốc gia và trong khả năng có thể, bảo vệ trước nguy cơ trả thù và đe dọa có thể xảy ra đến với nhân chứng và chuyên gia, những người đã đưa ra bằng chứng hoặc chứng thực liên quan đến tội phạm theo quy định của Công ước.

Luật Tố cáo năm 2011, đã dành một chương về bảo vệ người tố cáo (từ Điều 34 đến Điều 40), chủ yếu đưa ra những quy định chung nhất về người tố cáo, người bị tố cáo, thẩm quyền giải quyết tố cáo, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo…; riêng các vấn đề cụ thể liên quan đến tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng thì căn cứ vào Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012 thì quy định về vấn đề này cũng còn định tính: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi nhận được tố cáo hành vi tham nhũng… áp dụng kịp thời các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi có biểu hiện đe dọa, trả thù, trù dập người tố cáo hoặc khi người tố cáo yêu cầu…”. Điều 166, Bộ luật Hình sự năm 2015 nước ta quy định: Người nào, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Điều 482 Bộ luật Tố tung hình sự năm 2015 cũng quy định: Cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm.. xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật; áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo khi có yêu cầu, ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết của mình.

Về cơ quan bảo vệ người tố cáo, trong Luật Tố cáo năm 2011, quy định bảo vệ người tố cáo được thực hiện tại tất cả những nơi có thể ảnh hưởng đến người tố cáo, bao gồm: nơi cư trú, công tác, làm việc, học tập, nơi có tài sản của người cần được bảo vệ hoặc những nơi khác do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Luật Tố cáo năm 2011, không quy định trách nhiệm chính thuộc về cơ quan nào, chỉ quy định trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an và các cơ quan khác có thẩm quyền. Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo năm 2011, quy định (Khoản 2 Điều 3): “Người có thẩm quyền bảo vệ người tố cáo gồm: Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố cáo, cơ quan Công an các cấp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo”; bao gồm: Một là, cơ quan có trách nhiệm giải quyết tố cáo; Hai là, cơ quan Công an nơi người tố cáo, người thân thích của người tố cáo cư trú, làm việc, học tập; Ba là, cơ quan Công an nơi có tài sản của người tố cáo hoặc người thân thích của người tố cáo; Bốn là, tổ chức công đoàn cơ sở, cơ quan quản lý lao động hoặc cơ quan có thẩm quyền khác ở địa phương; Năm là, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan này với nhau và với cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo.

Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành, tuy là văn bản luật chuyên ngành, nhưng việc quy định trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc bảo vệ người tố cáo tham nhũng cũng khá chung chung. Khoản 1 Điều 5 quy định: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo hành vi tham nhũng”; và Khoản 2 Điều 65 quy định: “Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi nhận được tố cáo hành vi tham nhũng phải xem xét và xử lý theo thẩm quyền; giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin khác theo yêu cầu của người tố cáo; áp dụng kịp thời các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi có biểu hiện đe doạ, trả thù, trù dập người tố cáo hoặc khi người tố cáo yêu cầu; thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo khi có yêu cầu”. Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng tiếp tục bổ sung một quy định rất chung chung về bảo vệ người tố cáo “Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện các biện pháp để bảo vệ người tố cáo. Việc bảo vệ người tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo.

Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015, không có quy định cụ thể về cơ quan có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo, chỉ quy định về cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ (người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác) là cơ quan điều tra của Công an nhân dân và cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân. Ngoài ra, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương nếu xét thấy cần áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ trong vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ lý, giải quyết, điều tra thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương có văn bản đề nghị với Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra hình sự, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ.

Như vậy, việc bảo vệ người tố cáo nói chung và người tố cáo tham nhũng nói riêng theo các quy định của pháp luật hiện hành đang có quá nhiều cơ quan có trách nhiệm trong việc bảo vệ người tố cáo trong khi thẩm quyền của các cơ quan này còn hạn chế và chồng chéo, chưa có cơ quan đầu mối điều hành hoặc cơ quan chuyên biệt.

Về các biện pháp, điều kiện bảo vệ người tố cáo: Nghị định 76/2012/NĐ-CP quy định các biện pháp bảo vệ người tố cáo và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc bảo vệ người tố cáo, bao gồm các nội dung rất cụ thể như sau: Một là, bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo trong quá trình tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố cáo; Hai là, trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; Ba là, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo; Bốn là, bảo vệ tài sản của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo; Năm là, bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo; Sáu là, bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức; Bảy là, bảo vệ việc làm đối với người tố cáo, người thân thích của người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động mà không phải là viên chức.

Có thể nói rằng quy định của pháp luật hiện nay về bảo vệ người tố cáo đã có một bước phát triển rất lớn so với các quy định trước đó và đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tạo niềm tin và đảm bảo chắc chắn để người tố cáo yên tâm thực hiện quyền tố cáo của mình góp phần đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Theo phân tích ở trên, từ góc nhìn thực tiễn của công tác giải quyết tố cáo, có thể thấy vẫn còn một số nội dung cần làm rõ và quán triệt để các quy định này đi vào đời sống xã hội và có hiệu lực. Luật Tố cáo và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP quy định việc bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo được coi là một nguyên tắc xuyên suốt quá trình tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, do mô hình cơ quan, tổ chức tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo thường là những tập thể với nhiều bộ phận khác nhau cho nên nếu cán bộ, công chức và những người có liên quan chưa được quán triệt sâu sắc, nâng cao ý thức về việc giữ gìn bí mật thông tin của người tố cáo thì quy định này khó có thể được đảm bảo. Pháp luật cũng quy định "khi có căn cứ" cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe; xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm; hoặc bị trù dập, phân biệt đối xử tại nơi làm việc... của bản thân người tố cáo và người thân thích của người tố cáo thì tùy từng trường hợp họ có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan Công an, cơ quan, tổ chức có liên quan áp dụng biện pháp bảo vệ. Song, việc hiểu như thế nào là "có căn cứ" theo quy định trên đang còn là một vấn đề, vì quy định này không liệt kê hoặc định lượng ở  mức độ nào, những biểu hiện nào, những hành vi nào thì được coi là "có căn cứ"… Bên cạnh đó, việc bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam bộc lộ nhiều vấn đề bất cập do các cơ sở pháp lý hiện hành chưa xác định cụ thể cơ quan nào có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo; chưa có quy định về trình tự, thủ tục tiếp nhận, thụ lý và giải quyết yêu cầu bảo vệ của người tố cáo; các biện pháp bảo vệ chưa được cụ thể hóa; thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ người tố cáo.

Vì vậy, để góp phần giảm thiểu những hạn chế nêu trên trong việc thực thi bảo vệ người tố cáo, chúng ta cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật.  Căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam, pháp luật nên quy định cụ thể cơ quan đầu mối, điều phối chuyên trách bảo vệ người tố cáo; các cơ quan nội vụ, tổ chức thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức công đoàn có trách nhiệm hỗ trợ bảo vệ quyền lợi, vị trí công tác của người tố cáo. Cần thiết, tổng hợp, nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ người tố cáo và người thân thích của người tố cáo, nhất là có cơ chế riêng để bảo vệ người tố cáo tham nhũng. Đồng thời, cần quy định cụ thể về đạo đức công vụ của cán bộ, công chức; đề cao trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, xử lý tố cáo và giám sát, kiểm tra việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, công chức. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong bảo vệ người tố cáo. Bên cạnh những giải pháp này, cần giải quyết “gốc” của vấn đề khiếu nại, tố cáo; đó là phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật chuyên ngành theo định hướng kinh tế thị trường, không chỉ với mục tiêu tăng cường quản lý nhà nước… Đây mới là giải pháp triệt để nhằm đưa các quy định về bảo vệ người tố cáo thực sự phát huy trong thực tiễn, làm “chỗ dựa vững chắc” cho những công dân “đấu tranh cho sự thật và công bằng xã hội” khi thực hiện quyền tố cáo của mình./.

Mạnh HùngA