Bàn về nội dung quản lý Nhà nước về khiếu nại, tố cáo

Bàn về nội dung quản lý Nhà nước về khiếu nại, tố cáo 04/10/2016 10:32:00 4104

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Bàn về nội dung quản lý Nhà nước về khiếu nại, tố cáo

04/10/2016 10:32:00

Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và được xem là một chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là chức năng đặc biệt. Quản lý nhà nước (QLNN) về khiếu nại, tố cáo (KNTC) là biện pháp bảo đảm cho hoạt động giải quyết KNTC của công dân diễn ra đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao và bảo đảm được quyền KNTC của công dân đã được pháp luật quy định. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi muốn trao đổi về chủ thể quản lý và nội dung QLNN về KNTC; cụ thể:

Quản lý nhà nước về khiếu nại: Theo quy định tại Điều 63 Luật Khiếu nại năm 2011 trách nhiệm của cơ quan QLNN về công tác giải quyết khiếu nại, gồm: Chính phủ thống nhất QLNN về công tác giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN) trong phạm vi cả nước; Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về công tác giải quyết khiếu nại trong phạm vi cả nước; Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp thực hiện QLNN về công tác giải quyết khiếu nại trong phạm vi quản lý của mình; Thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thanh tra sở, Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giúp thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp quản lý công tác giải quyết khiếu nại.

Điều 25 của Luật Khiếu nại quy định Chánh Thanh tra các cấp: Giúp thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp tiến hành kiểm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp khi được giao; Giúp thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật. Trường hợp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về khiếu nại gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì kiến nghị thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp hoặc kiến nghị người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để chấm dứt vi phạm, xem xét trách nhiệm, xử lý đối với người vi phạm.

Quản lý nhà nước về tố cáo: theo quy định tại Điều 41 Luật Tố cáo năm 2011 quy định trách nhiệm của cơ quan QLNN về công tác giải quyết tố cáo, gồm: Chính phủ thống nhất QLNN về công tác giải quyết tố cáo trong các CQHCNN trong phạm vi cả nước; Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về công tác giải quyết tố cáo trong phạm vi thẩm quyền của Chính phủ; Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp thực hiện QLNN về công tác giải quyết tố cáo trong phạm vi quản lý của mình; Thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thanh tra sở, Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giúp người đứng đầu cơ quan QLNN cùng cấp quản lý công tác giải quyết tố cáo.

Điều 23 Luật Tố cáo quy định Tổng Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung xác minh, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ khi được giao; xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết lại. Đồng thời, quy định Chánh Thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, Chánh Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chánh Thanh tra sở, Chánh Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có trách nhiệm: Xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung xác minh, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp khi được giao; Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp xem xét, giải quyết lại.

Về nội dung QLNN về KNTC, theo chúng tôi có thể tổng hợp thành sáu (06) nội dung chính sau: việc Thể chế hóa văn bản quy phạm pháp luật về KNTC; Xây dựng đề án phát triển QLNN về KNTC; Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật về KNTC; Xây dựng lực lượng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác giải quyết KNTC; Tổng hợp thông tin báo cáo, tổng kết kinh nghiệm công tác giải quyết KNTC; Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về KNTC

Thứ nhất, thể chế hóa văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Hiện nay, khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực giải quyết KNTC được Quốc hội, Chính phủ và Thanh tra Chính phủ ban hành và hướng dẫn đầy đủ. Nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, cá nhân người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải thể chế hóa các luật, nghị định của Chính phủ để triển khai thực hiện trong ngành và lĩnh vực mình quản lý. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác QLNN về KNTC cũng như bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; đồng thời, thể hiện vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân người có thẩm quyền trong giải quyết các vấn đề xã hội.

Thứ hai, xây dựng đề án tăng cường QLNN về KNTC. Trong thực tiễn các hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường có nhiều vấn đề mới nảy sinh, một số chính sách, quy định khi được ban hành không theo kịp diễn biến của quá trình đổi mới, một số quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) của các cấp các ngành thiếu chuẩn xác, còn bất cập,… đã dẫn đến việc KNTC của công dân có khả năng tăng nhanh về số lượng, cũng như phức tạp về tính chất. Tuy nhiên, pháp luật về KNTC được ban hành khá đầy đủ, nhưng nhiều văn bản thiếu đồng bộ, bất cập hoặc đáp ứng được yêu cầu trong thực tiễn... việc thường xuyên nghiên cứu, xây dựng các Đề án về công tác KNTC là cần thiết và quan trọng, nhằm đánh giá thực trạng, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quản lý, triển khai pháp luật về KNTC để có giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung VBQPPL, tăng cường công tác QLNN về KNTC, tạo ra sự chuyển biến tích cực, hạn chế các vụ việc KNTC nổi cộm, phức tạp kéo dài, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội.

Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục; hướng dẫn tổ chức thực hiện. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về KNTC nhằm tạo ra sự chuyển biến về nhận thức, nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật KNTC của CBCC và nhân dân. Ngoài việc, giúp CBCC nắm được quy định của pháp luật trong giải quyết KNTC còn giúp người dân hiểu và thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình khi thực hiện quyền KNTC. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật KNTC cần được triển khai bằng nhiều hình thức và được xác định rõ mục tiêu, nội dung, biện pháp, lộ trình thực hiện, phù hợp với thực tiễn và phải đạt mục tiêu chung là tạo ra sự chuyển biến căn bản trong nhận thức và nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; góp phần ngăn chặn và hạn chế HVVPPL về KNTC;

Thứ tư, xây dựng lực lượng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Giải quyết KNTC của công dân là một nhiệm vụ quan trọng, trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến công dân; vì vậy, cần phải thường xuyên kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) làm công tác giải quyết KNTC. Để có được điều này thì một trong những giải pháp quan trọng là việc thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho CBCC làm công tác giải quyết KNTC. Ngoài phổ biến các quy định được sửa đổi, bổ sung hay mới ban hành; còn cung cấp kiến thức, trao đổi kỹ năng, nghiệp vụ trong công tác xử lý đơn thư, giải quyết KNTC trong thực thi công vụ; tạo điều kiện cho đội ngũ, cán bộ công chức có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và phương thức giải quyết đơn thư KNTC thông qua thực tế quá trình thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan, đơn vị và địa phương.

Thứ năm, thông tin báo cáo; tổng kết kinh nghiệm công tác khiếu nại, tố cáo. Chế độ thông tin báo cáo là một trong những chế độ thiết yếu, quan trọng của quản lý, giúp người lãnh đạo đổi mới phong cách, phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị; vì vậy, các cơ quan, đơn vị phải chấp hành nghiêm chế độ thông tin báo cáo nói chung và công tác giải quyết KNTC nói riêng. Các báo cáo lĩnh vực KNTC phải đảm bảo chất lượng, nội dung thông tin, ngắn gọn, xúc tích, đánh giá rõ thực tế tình hình, kết quả thực hiện các mặt công tác, nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, có số liệu dẫn chứng rõ ràng, đầy đủ... Qua đó, tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu đề xuất giải pháp đổi mới phương pháp QLNN về KNTC, nâng cao hiệu quả giải quyết KNTC của công dân là công việc hết sức cần thiết; đây sẽ là một yêu cầu đối với các cơ quan, tố chức, đơn vị có chức năng QLNN về giải quyết KNTC của công dân.

Thứ sáu, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về KNTC. Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình QLNN, là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Thanh tra, kiểm tra giải quyết KNTC là một mắt xích, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình QLNN về KNTC. Qua thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết KNTC sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm quản lý của các ngành, các cấp, đồng thời nắm bắt được tình hình KNTC và kết quả giải quyết ở các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền. Qua đó, thấy được các thiếu sót cũng như những vướng mắc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật để kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý người thiếu trách nhiệm, chấp hành không đúng quy định pháp luật trong giải quyết KNTC.

Qua đó cho thấy, quản lý về KNTC của công dân là nhiệm vụ của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền của CQHCNN trong hoạt động QLNN của mình. Nếu thực hiện QLNN về KNTC tốt thì có vai trò thúc đẩy hoạt động quản lý của CQHCNN tiến bộ và phù hợp với nhu cầu của xã hội. Ngược lại, nếu QLNN về KNTC không được quan tâm, giải quyết thiếu triệt để thì hậu quả kéo theo là hoạt động của CQHCNN không theo kịp nhu cầu của xã hội, không thể ổn định và thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ đó làm cho nền hành chính quốc gia kém phát triển, không theo kịp khu vực và thế giới. Hoạt động quản lý của CQHCNN thực chất là hoạt động chấp hành và điều hành, việc giải quyết KNTC một mặt thể hiện hoạt động chấp hành đúng quy định mà các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đặt ra, được các CQHCNN áp dụng vào hoạt động QLNN về KNTC. Một mặt thể hiện hoạt động điều hành là khi giải quyết KNTC cơ quan có thẩm quyền đã trực tiếp tác động lên các hành vi bị KNTC, làm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể KNTC. Đồng thời, công tác QLNN về KNTC đảm bảo sự tồn tại và ổn định của hoạt động của CQHCNN. Nếu hoạt động chấp hành, giải quyết KNTC không tuân thủ nghiêm minh sẽ vi phạm quy định của văn bản pháp luật, dẫn đến người trực tiếp giải quyết KNTC bị xử lý theo pháp luật, nhằm trả lại công minh cho hoạt động của CQHCNN. Nếu hoạt động điều hành, không tiến hành đúng thủ tục luật định khi giải quyết KNTC sẽ không bảo đảm được các quyền lợi của các chủ thể liên quan, nhất là người KNTC không được bảo đảm thì chính người có thẩm quyền giải quyết KNTC cũng sẽ bị xử lý theo pháp luật vì đã không tiến hành đúng trình tự, thủ tục giải quyết mà pháp luật đã quy định./.

Mạnh HùngA