Thuế gián thu: Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược thuế và một số đề xuất khuyến nghị cho giai đoạn 2021 - 2030

Thuế gián thu: Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược thuế và một số đề xuất khuyến nghị cho giai đoạn 2021 - 2030 20/04/2021 18:26:00 3372

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Thuế gián thu: Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược thuế và một số đề xuất khuyến nghị cho giai đoạn 2021 - 2030

20/04/2021 18:26:00

Nguyễn Văn Phụng

Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn, Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính

 

Thuế gián thu được phân loại theo thông lệ quốc tế gồm thuế xuất - nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), riêng ở Việt Nam có thêm thuế bảo vệ môi trường (BVMT). Trải qua 10 năm thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 20201 có thể thấy, cải cách thuế gián thu cơ bản đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, đóng góp quan trọng vào huy động thu ngân sách nhà nước (NSNN), cũng như thay đổi cơ cấu thu NSNN theo hướng bền vững hơn… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, thực tiễn thi hành pháp luật về thuế gián thu đã phát sinh những tồn tại, hạn chế cần có giải pháp đổi mới trong thời gian tới.

Từ khóa: Cải cách thuế, thuế gián thu, thuế GTGT, thuế xuất - nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế BVMT.

Indirect taxes are classified according to international practices including import - export tax, value-added tax (VAT) and excise tax, particularly in Vietnam, there is an addition of environmental protection tax. Over the past 10 years of implementing the Tax System Reform Strategy for the 2011 - 2020 period, it can be seen that the indirect tax reform has basically achieved the goals and requirements, making an important contribution to the mobilization of state budget revenue, as well as changing the structure of state budget revenue towards more sustainable... However, besides the achievements and advantages, the practice of implementing the indirect tax law has created shortcomings and limitation that need innovative solutions in the coming time.

Keywords: Tax reform, indirect tax, VAT, import-export tax, excise tax, environmental protection tax.

1. Một số vấn đề về thuế gián thu

Thuế gián thu là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải là người chịu thuế. Thuế gián thu là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành trong giá mua hàng hoá, nhằm động viên sự đóng góp của người tiêu dùng. Thực chất người tiêu dùng phải trả khoản thuế đó nhưng lại nộp thông qua nhà kinh doanh, nhà sản xuất như thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế xuất - nhập khẩu… Thuế gián thu thường có cơ sở đánh thuế là các khoản thu nhập dùng để tiêu dùng.

Thuế gián thu là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa và dịch vụ, lũy thoái vì mức thuế không phụ thuộc vào thu nhập có khả năng nhận được của người nộp thuế, gây hiệu ứng chuyển thuế trực tiếp vào giá cả hàng hóa, dịch vụ. Các sắc thuế gián thu thường có đối tượng chịu thuế rộng, chi phí quản lý thấp hơn so với thuế trực thu, do đó có thể mang lại nguồn thu thường xuyên và ổn định cho NSNN.

Việc phân định giữa thuế gián thu với thuế trực thu dựa trên tiêu chí chuyển dịch thuế vào giá, tuy nhiên cũng chỉ mang tính chất tương đối do không phải trường hợp nào thuế gián thu cũng được chuyển hết vào giá bán. Với những loại hàng hóa, dịch vụ ở thời điểm cung vượt cầu, hoặc khi xảy ra tình trạng khủng hoảng, suy thoái kinh tế thì người bán phải giảm giá, có khi phải hạ tới mức còn thấp hơn cả giá thành, chấp nhận lỗ. Khi đó, tiền thuế cộng vào giá bán cho người mua không đủ bù đắp tiền thuế đã trả trước tại thời điểm mua vào, kéo theo tiền thuế nộp sẽ lấy vào vốn của người bán nên không còn mang ý nghĩa thuế gián thu, mà trở thành thuế trực thu.

Thực tiễn cho thấy, tại các nước đang phát triển, thuế gián thu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN, trong khi tại các quốc gia phát triển thì thuế trực thu chiếm tỷ trọng cao hơn. Tuy nhiên, một số báo cáo nghiên cứu gần đây lại cho rằng, các nhà lập pháp thường ưu tiên sử dụng công cụ thuế gián thu hơn thuế trực thu bởi tính hiệu quả đem lại. Thời gian gần đây nhiều nước (kể cả những nước phát triển) đang có xu hướng giảm thuế trực thu và tăng thuế gián thu, cùng với việc cải cách chi tiêu công theo hướng tăng phúc lợi xã hội và tăng mức chi tiêu dành cho tầng lớp có thu nhập thấp.

2. Kết quả thực hiện chính sách thuế gián thu ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

Thuế xuất - nhập khẩu

Các nội dung đã được triển khai đồng bộ và toàn diện từ năm 2011 gồm: (i) Rà soát các dòng thuế đối với từng mặt hàng để đưa vào các biểu thuế áp dụng đối với từng khu vực theo lộ trình cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA); (ii) Đàm phán, ký kết các FTA thế hệ mới để mở rộng thị trường quốc tế; (iii) Sửa đổi các quy định pháp luật liên quan đến chính sách quản lý ngành hàng, các rào cản kỹ thuật và các biện pháp phòng vệ hợp lý; (iv) Sửa đổi Luật Thuế xuất - nhập khẩu Luật Hải quan với mục tiêu tạo thuận lợi cho mở cửa thị trường, đồng thời với việc thực hiện bảo hộ các ngành sản xuất trong nước một cách hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện…

Việc ban hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (2016) tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ trong chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần vào việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở; thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hạn chế xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản dạng thô, khuyến khích đầu tư công nghệ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm chế biến sâu. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu hằng năm theo cam kết tại các hiệp định thương mại song phương và đa phương, đưa mức thuế theo nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) bình quân toàn biểu từ 17,4% (năm 2010) xuống còn 10,4% (năm 2015), bảo đảm thực hiện bảo hộ một cách hợp lý, có thời hạn, có điều kiện, có lộ trình… Cùng với việc Quốc hội phê chuẩn thông qua FTA Việt Nam - EU (EVFTA), các nội dung của Luật Thuế xuất - nhập khẩu bảo đảm cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các lợi từ việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Đồng thời cũng tạo sức ép đối với việc sắp xếp lại sản xuất trong nước, đổi mới công nghệ, thay đổi tư duy quản trị… qua đó có tác động đến sự thay đổi cơ cấu thu NSNN bền vững hơn khi thực hiện cắt giảm thuế quan trên diện rộng.

Thuế GTGT

Trong 10 năm qua, thuế GTGT được sửa đổi, bổ sung nhiều nhất theo mục tiêu mở rộng cơ sở thuế; rõ ràng, minh bạch trong chính sách, hạn chế cơ hội gian lận hoặc trục lợi, từ đó tạo môi trường đầu tư và kinh doanh bình đẳng; tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp và người nộp thuế, giảm chi phí tuân thủ và chi phí quản lý.

Mở rộng cơ sở thuế GTGT thông qua việc thu gọn danh mục chi tiết và quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT2. Trong đó, thu hẹp diện áp thuế 0% đối với sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản chưa chế, hoặc giá trị chế biến thấp (khoản 23) để không hoàn thuế đầu vào, hạn chế xuất khẩu thô và khuyến khích chế biến sâu tài nguyên, khoáng sản.

Quy định cơ chế vận hành mới đối với nhóm hàng hóa là sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản: Tại khâu đầu tiên sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế nhưng tại các khâu kinh doanh tiếp theo, các doanh nghiệp, hợp tác xã có bán cho người nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ GTGT đầu vào. Cơ chế này đã tạo thuận lợi hơn trong lưu thông nội địa, vừa tiết kiệm được chi phí tài chính, do không phải bỏ tiền nộp thuế trước, vừa được khấu trừ thuế đầu vào trong khâu lưu thông làm tăng giá trị của hàng hóa nông sản...

Lần đầu tiên quy định các “ngưỡng doanh thu” để áp dụng thuế GTGT bảo đảm cho thuế GTGT của Việt Nam đạt chuẩn mực thông lệ quốc tế, trên cơ sở đó tạo thuận lợi cho việc mở rộng cơ sở thuế đối với các hoạt động kinh doanh mới xuất hiện trong cơ chế kinh tế thị trường, nền kinh tế số và kinh tế chia sẻ. Cá nhân, hộ kinh doanh có doanh thu 1 năm đạt ngưỡng 100 triệu đồng trở lên thì đều phải có nghĩa vụ trả thuế GTGT; đồng thời thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân (nếu doanh thu năm từ 100 triệu đồng trở xuống thì được miễn nộp các loại thuế).

Quy định ngưỡng doanh thu chịu thuế 100 triệu đồng đã giúp cơ quan thuế có cơ sở pháp lý vững chắc và nguồn thông tin dữ liệu xác thực (phối hợp với các ngân hàng thương mại) để truy thu hàng trăm tỷ đồng tiền thuế của các cá nhân kinh doanh qua mạng, du lịch, dịch vụ trực tuyến, quảng cáo, phần mềm, nội dung số trên các trang mạng xã hội...

Trong quản lý thuế GTGT, các văn bản pháp luật quy định về ngưỡng doanh thu 1 tỷ đồng/năm để làm cơ sở phân loại các doanh nghiệp được đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế hoặc phương pháp trực tiếp trên doanh thu. Do vậy, các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, siêu nhỏ trong thời gian đầu được lựa chọn cách nộp thuế đơn giản tiện lợi mà Nhà nước cũng tăng thu được tiền thuế từ các đối tượng này.

Sửa đổi các quy định pháp luật về thuế GTGT nhằm thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước như: chính sách tam nông, khuyến khích ngư dân ra khơi bám biển... Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều các luật về thuế đã có quy định một số mặt hàng trước đây áp dụng mức thuế suất GTGT thấp (5%), từ năm 2015 được chuyển sang đối tượng không chịu thuế GTGT như: phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác. Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016 đã bổ sung thêm nhóm hàng hóa không được đưa vào diện chịu thuế 0% để không hoàn thuế khi xuất khẩu sản phẩm, hàng hóa có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên, góp phần thực hiện tăng cường quản lý tài nguyên, khoáng sản.

Sự thay đổi mang tính đột phá trong lần sửa đổi Luật Thuế GTGT năm 2016 là không hoàn thuế cho các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất - kinh doanh tiêu thụ nội địa có số thuế GTGT đầu vào lũy kế 12 tháng chưa được khấu trừ hết (số thuế GTGT đầu vào cao hơn số thuế GTGT đầu ra). Việc đề xuất sự thay đổi này được tổng kết đúc rút từ thực tiễn gần 20 năm áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam, tác động làm giảm đáng kể các doanh nghiệp được thành lập với mục đích trục lợi, trốn thuế.

Việc sửa đổi quy định hoàn thuế GTGT cho doanh nghiệp đang hoạt động tại địa phương có đặt trụ sở thay vì hoàn thuế tại địa phương nơi doanh nghiệp có dự án đầu tư đã bảo đảm số thu thuế GTGT thực chất hơn, mặc dù số thu ít hơn nhưng hoàn thuế cũng ít hơn do thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư được bù trừ với thuế GTGT đầu ra của hoạt động sản xuất - kinh doanh. Qua đó góp phần điều hành ngân sách chủ động hơn, minh bạch hơn, ngân sách trung ương giảm được các khoản tài trợ không chính đáng cho ngân sách địa phương. Đối với doanh nghiệp có dự án đầu tư hoặc xuất khẩu, việc thay đổi quy định về hoàn thuế cũng giúp các doanh nghiệp này chủ động hơn (vừa có nộp, vừa có hoàn), thuận lợi hơn do giảm bớt thủ tục và tiết kiệm được chi phí tài chính.

Cùng với việc tiếp tục hoàn thuế nhanh cho xuất khẩu, thuận lợi cho đầu tư, những quy định về điều kiện hoàn thuế, khấu trừ thuế được thực hiện chặt chẽ hơn, hợp lý hơn, vừa có tác động ngăn chặn các hành vi gian lận thuế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, khuyến khích xuất khẩu và đầu tư, đồng thời bảo đảm quản lý nguồn thu chặt chẽ hơn.

Thuế TTĐB

Thuế TTĐB được sửa đổi tương đối căn bản trong 10 năm qua, thể hiện ở những nội dung:

Về mặt hàng chịu thuế TTĐB: Luật Thuế sửa đổi năm 2014 đã áp thuế đối với mặt hàng xăng các loại, thay cho các sản phẩm thuộc khâu trung gian như trước như: Chế phẩm tái hợp, naphtha và các chế phẩm khác để pha chế xăng. Đối với tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích đi lại của cá nhân và tổ chức thì áp thuế TTĐB, nếu sử dụng cho mục đích sản xuất - kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, khách du lịch và tàu bay sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng thì thuộc diện không chịu thuế.

Giá tính thuế*3 được sửa đổi nhằm bảo đảm sự bình đẳng về giá tính thuế, cách tính thuế và mức thuế giữa hàng hóa được sản xuất ở Việt Nam và hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, hàng hóa nhập khẩu sẽ tính theo giá của doanh nghiệp nhập khẩu khi bán ra, thay vì chỉ tính trên giá nhập khẩu cộng thuế nhập khẩu như trước đây.

Doanh nghiệp nhập khẩu làm thủ tục hải quan sẽ tạm khai nộp thuế TTĐB, khi bán ra sẽ xác định số thuế TTĐB và khai nộp thêm phần chênh lệch cao hơn số tạm thu. Tuy nhiên, nếu số tạm nộp cao hơn số thuế tính theo giá bán ra thì không được hoàn lại số thuế chênh lệch âm. Quy định mới đã làm tăng hiệu quả quản lý thuế trong khâu nhập khẩu, môi trường kinh doanh được cải thiện, bình đẳng hơn.

Từ thực tiễn thanh tra phát hiện các hành vi gian lận giá, chuyển giá của các doanh nghiệp, cũng như các hành vi thông đồng, gian lận, trục lợi, trốn tránh thuế... quy định mới đã được đưa vào Luật Thuế TTĐB, đó là: “Trường hợp hàng hóa chịu thuế TTĐB được bán cho cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở có quan hệ công ty mẹ, công ty con; hoặc mua/bán giữa các công ty con trong cùng công ty mẹ với cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất; hoặc mua/bán giữa cơ sở kinh doanh thương mại mà có mối quan hệ liên kết với cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu thì giá tính thuế TTĐB không được thấp hơn tỷ lệ phần trăm so với giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại mua trực tiếp của cơ sở sản xuất, nhập khẩu bán ra theo quy định của Chính phủ”*4.

Quy định về biểu thuế suất được sửa đổi theo hướng tăng thuế đối với ô tô có dung tích xi-lanh lớn, sử dụng nhiều nhiên liệu, hạ thuế đối với xe sử dụng ít nhiên liệu; xe chở người từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi và xe bán tải được áp thuế thấp hơn xe loại 9 chỗ ngồi trở xuống. Nhằm hạn chế phát thải ô nhiễm, khuyến khích sử dụng năng lượng sạch (điện, nhiên liệu sinh học), Luật áp dụng mức thuế thấp hơn so với mức thuế cao đánh vào xe sử dụng nhiên liệu xăng khoáng (RON).

Lộ trình tăng thuế suất áp dụng đối với các mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng, có hại cho sức khỏe như thuốc lá, rượu, bia*5 được công khai để người dân và doanh nghiệp biết rõ và chủ động điều chỉnh, thích ứng dần; qua đó hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đối với sản xuất - kinh doanh của ngành hàng có mức đóng góp thuế rất cao.

Thuế BVMT

Nhiệm vụ trọng tâm được xác định rõ trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020 là: “Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Thuế BVMT có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 nhằm khuyến khích doanh nghiệp, người dân chuyển đổi hành vi sử dụng, tiêu dùng sản phẩm góp phần BVMT, qua đó động viên nguồn thu cho NSNN; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung đối tượng thu, điều chỉnh mức điều tiết nhằm hạn chế sử dụng những hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường sinh thái”.

Để triển khai thực hiện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quy định Biểu thuế năm 2011 và tăng thuế vào các năm sau (năm 2012 áp mức thuế đối với xăng, nhiên liệu bay 1.000 đồng/lít, năm 2015 tăng lên 3.000 đồng và 4.000 đồng/lít áp dụng từ ngày 01/01/2019). Việc điều chỉnh tăng mức thuế BVMT có tính đến mức độ ô nhiễm, tổn hại đến môi trường, khả năng chịu đựng của các ngành sản xuất, bảo đảm tính linh hoạt, kịp thời, gắn với diễn biến của thị trường và góp phần tăng thu NSNN. Dịch Covid-19 xảy ra, ngành vận tải hàng không bị tác động rất lớn, thuế BVMT đối với nhiên liệu bay cũng đã được cắt giảm 30% thể hiện sự chia sẻ của Nhà nước với doanh nghiệp khi khó khăn.

Cải cách thuế gián thu theo Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 - 2020 được xã hội đánh giá cao về phương pháp nghiên cứu, đề xuất và cách thức xây dựng văn bản pháp luật. Một văn bản luật, sửa nội dung của nhiều luật, 1 nghị định sửa đổi, bổ sung quy định của nhiều nghị định và đặc biệt là 1 thông tư sửa nội dung của 7 thông tư (Thông tư số 119/2014/TT-BTC)… là cách làm mới. Không chỉ đơn thuần là tiết kiệm chi phí, thời gian, cách làm này còn bảo đảm cho sự thống nhất, đồng bộ của cả hệ thống chính sách thuế, mang lại lợi ích cho toàn xã hội trên nhiều mặt. Với người nộp thuế, hàng trăm nghìn doanh nghiệp (có doanh thu năm từ 50 tỷ đồng trở xuống) có tần suất khai nộp thuế GTGT là 12 lần được giảm đi 2/3, chỉ còn 4 lần mỗi năm khi nộp thuế GTGT theo tháng được chuyển sang nộp theo quý.

3. Những đề xuất, khuyến nghị cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 - 2030

Mở rộng cơ sở thuế gián thu

Ngoại trừ thuế xuất - nhập khẩu được xây dựng danh mục chi tiết mã số HS theo tiêu chuẩn quốc tế và đưa vào các biểu thuế tương ứng theo từng FTA, các loại thuế GTGT, TTĐB và BVMT trong 10 năm qua mặc dù đã mở rộng cơ sở thuế nhưng chưa đạt được như kỳ vọng.

Nhiều ý kiến đề xuất đánh thuế TTĐB đối với đồ uống có đường, có ga do gây ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng nhưng chưa đủ sức thuyết phục. Do đó sẽ khả thi nếu áp thuế đối với nước giải khát có đường, quy định rõ không đánh thuế TTĐB đối với nước hoa quả, sữa để bảo vệ số đông người tiêu dùng, nông sản chế biến.

Việc áp thuế TTĐB đối với du thuyền, máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu cần được quy định cụ thể vì đối tượng tiêu dùng là người có thu nhập cao thay vì quy định tàu bay như hiện hành đang gặp nhiều vướng mắc (thiết bị bay dùng cho phun thuốc trừ sâu, bón phân, flycam cho quay phim, thiết bị bay là đồ chơi trẻ em, nghiên cứu thì không nên áp thuế TTĐB).

Danh mục hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT vẫn còn rộng với 26 nhóm, cần tiếp tục rút bớt danh mục này chuyển sang diện chịu thuế GTGT, đó là các dịch vụ chi tiêu công bằng nguồn NSNN; cần phải bảo đảm sự công bằng về giá và chất lượng dịch vụ, Nhà nước trả tiền để mua dịch vụ thì cũng là người tiêu dùng… Do vậy, đề xuất chuyển sang áp thuế GTGT đối với một số nhóm6.

Việc đánh thuế hay không đánh thuế cần được quy định thống nhất, áp dụng đánh thuế đối với loại thuế nào trong các trường hợp bất cập hiện nay

Một số loại dịch vụ cao cấp đắt tiền liên quan đến chăm sóc sức khỏe, làm đẹp cao cấp (ví dụ như spa) chưa được phân định rõ ràng để áp thuế GTGT (chăm sóc sức khỏe, vật lý trị liệu) hay xác định là masage để áp cả thuế TTĐB và thuế GTGT.

Những giao dịch đã phát sinh ở thị trường trong và ngoài nước như giao dịch phái sinh hàng hóa (giao dịch kỳ hạn, hợp đồng tương lai…) có bản chất tương tự như giao dịch tài chính phái sinh (bởi sự vận động của hàng hóa vật chất hoàn toàn độc lập với giao dịch này) chưa được quy định rõ và có nhiều cách hiểu khác nhau.

Nghiệp vụ thư tín dụng (L/C) không chỉ đơn thuần là dịch vụ thanh toán qua tài khoản mà cần phải xét đến bản chất gắn với hoạt động nào, trên cơ sở đó quy định rõ trường hợp nào áp thuế GTGT và trường hợp nào thuộc diện không chịu thuế. Theo chuẩn mực quốc tế (Bộ quy tắc UCP 600), một ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng phát hành/xác nhận L/C về bản chất là cam kết/bảo lãnh, do vậy thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Ngược lại, ngân hàng chỉ làm việc thông báo, xác nhận L/C và chỉ thanh toán khi L/C có ký quỹ thì cần áp thuế 10% vì bản chất đây là dịch vụ thanh toán, xác nhận đơn thuần.

Cần sớm nghiên cứu đưa vào áp thuế GTGT đối với một số trường hợp đang gây khó khăn cho sản xuất - kinh doanh trong nước, hạn chế sức cạnh tranh của doanh nghiệp

Một số mặt hàng là đầu vào của nông nghiệp (phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác) là đối tượng không chịu thuế theo Luật số 71/2014 (hiệu lực từ ngày 01/01/2015) cần được xem xét toàn diện các mối quan hệ giữa Nhà nước - doanh nghiệp - người tiêu dùng, mối quan hệ giữa mở cửa thị trường với bảo hộ sản xuất trong nước. Những năm qua, các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng này đang chịu sức ép từ 2 phía: bị hàng ngoại nhập khẩu ép giá, do không phải trả thuế; giá thành phải tăng thêm khoản thuế đầu vào không được khấu trừ. Trên cơ sở thực tế này, kiến nghị áp thuế GTGT 5% theo quy định đã có trước đây để khắc phục bất cập này.

Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ dầu thô (đối tượng không chịu thuế GTGT) đề nghị được chuyển sang diện áp thuế do đây là sản phẩm của quá trình chế biến sâu. Thực tế 5 năm qua cho thấy, quy định này đang gây khó khăn cho các ngành công nghiệp chế biến, trong đó có ngành lọc hóa dầu (tạo ra các loại xăng dầu loại, hạt nhựa, hóa chất, nhựa đường…).

Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ hết do quy định mới từ ngày 01/7/2016 cần có quy định để xử lý nhằm bảo đảm lành mạnh tài chính cho các doanh nghiệp.

Thực tế cho thấy, từ tháng 7/2016, quy định mới không hoàn thuế cho các doanh nghiệp đang hoạt động có số thuế đầu vào bị âm (không được khấu trừ hết). Đối với các doanh nghiệp chuyên sản xuất các mặt hàng chịu thuế suất 5% (như thiết bị, dụng cụ y tế, thuốc chữa bệnh…), nhưng vật tư, thiết bị đầu vào thuộc diện chịu thuế 10% nên luôn chịu mức âm thuế mà không có quy định để xử lý. Nếu tiếp tục hạch toán dồn lũy kế ở tài khoản 133 (theo dõi về thuế GTGT đầu vào được khấu trừ) ngày càng gia tăng không có nguồn xử lý sẽ dẫn đến khả năng doanh nghiệp bị mất vốn, mất thanh khoản.

Trong quản lý thuế GTGT cần xem xét lại cơ chế tạm nhập tái xuất đối với các trường hợp thuê máy móc, thiết bị của nước ngoài (đang thực hiện nghĩa vụ thuế nhà thầu nước ngoài) nhưng cơ chế kiểm tra, giám sát về mặt hiện vật thực hiện theo pháp luật về hải quan.

Tại khâu nhập khẩu thu trước thuế GTGT nhưng khi tái xuất lại không cho hoàn thuế GTGT đã nộp do chưa được quy định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn về thuế GTGT.

Sự phát triển của khoa học và công nghệ, tính chuyên môn hóa rất cao của những ngành kinh tế đặc thù, sử dụng công nghệ cao như hàng không, điện khí… làm nảy sinh các hoạt động kinh tế mới. Thực tiễn ngày càng có nhiều loại Hợp đồng Pooling đối với các thiết bị, động cơ quay vòng (định kỳ phải tháo lắp đưa về nơi sản xuất ở ngoài Việt Nam để kiểm tra, bảo dưỡng), doanh nghiệp không phải bỏ vốn để mua dự trữ mà có thể yêu cầu nhà cung cấp hoán đổi hiện vật và trả phí sử dụng có thời hạn. Hoạt động kinh tế này cũng cần phải có quy định cụ thể về cơ chế quản lý thuế GTGT bởi chúng đang trở thành xu thế phát triển nhanh trong tương lai gần.

Đối với thuế TTĐB cần sớm có hướng dẫn cụ thể đối với các trường hợp bất cập trong chính sách và quản lý thuế

Xăng sinh học đang chịu thuế TTĐB ở mức thấp, nhưng xăng RON là nguyên liệu pha chế ra xăng sinh học chiụ thuế suất cao, nên luôn có số thuế đã nộp khâu nguyên liệu đầu vào cao hơn số phải nộp khâu bán ra, vì vậy cần quy định việc hoàn thuế theo đúng nguyên tắc Luật đã quy định.

Thuế TTĐB đối với xăng sản xuất trong nước thì được khai nộp ngay tại nhà máy trong khi xăng nhập khẩu thì nộp thuế TTĐB tại khâu nhập khẩu. Thương nhân xăng dầu thường mua cả 2 nguồn xăng nhưng chứa chung trong bồn chứa, đường dẫn nên không thể tách được lít nào nhập khẩu, lít nào đã trả thuế. Do vậy cần có hướng dẫn sử dụng phương pháp hạch toán kho hàng theo chuẩn mực kế toán để doanh nghiệp thực hiện thống nhất việc tính thuế, khai thuế.

Quy định về khấu trừ thuế TTĐB tại khâu nguyên liệu khi tính thuế TTĐB, khâu thành phẩm cần phải được xác định thống nhất trong cùng một kỳ hạch toán vì số thuế khấu trừ là dựa trên định mức (khác với khấu trừ theo hóa đơn như thuế GTGT), cần có quy định thống nhật để thực hiện.

Ngoài ra, đối với thuế BVMT, thực tế đang tồn tại bài toán chưa có lời giải liệu có thu đủ thuế đối với túi nilon do giá bán loại này rất rẻ, thậm chí có nơi giá bán trên thị trường còn thấp hơn nhiều mức thuế trên 1 đơn vị kg. Vấn đề là các cơ sở sản xuất - kinh doanh túi nilon hiện nay chủ yếu là các hộ kinh doanh cá thể, nộp thuế theo phương pháp khoán theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu khoán. Thực tế cơ quan thuế không có chức năng và quyền hạn để kiểm soát 24/24 các cơ sở sản xuất này. Do vậy đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về cấp đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý về môi trường, quản lý thị trường để khắc phục tình trạng này.

 

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị (2016), Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.

2. Bộ trưởng Bộ Tài chính (2011, 2016), Quyết định số 2162/QĐ-BTC ngày 08/9/2011 về việc phê duyệt Kế hoạch cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2015 và các đề án triển khai thực hiện giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số 2710/QĐ-BTC ngày 20/12/2016 về việc ban hành Kế hoạch cải cách quản lý thuế giai đoạn 2016 - 2020.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011, 2016, 2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, XIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, giai đoạn 2021 - 2030.

4. Ngân hàng Thế giới (2011), Cải cách thuế ở Việt Nam: Hướng tới một hệ thống hiệu quả và công bằng hơn.

5. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 732/2011/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020.

Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam số 2/2021

 

 

1 Theo Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011.

2 Quy định tại Điều 5 của Luật Thuế GTGT (khoản 4, 7, 8, 11, 15, 17, 23 và 25).

3 Theo quy định tại Điều 6 Luật Thuế TTĐB.

4 Nghị định số 108/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 của Chính phủ quy định đối với ô tô nhập khẩu nếu có giá bán ra thấp hơn 105% giá vốn thì cơ quan thuế thực hiện ấn định giá tính thuế.

5 Luật năm 2014 đã quy định mức thuế cụ thể các năm 2016, 2017, 2018, 2019.

6 Quy định tại các khoản 10, 11, 14, 15, 16 và 18 của Điều 5 Luật Thuế GTGT.

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%