Nguyễn Thị Thu
Cải cách thuế gián thu để củng cố tài khóa và bù đắp sự sụt giảm nguồn thu ngân sách do thực hiện các biện pháp cắt giảm thuế trực thu, thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đã trở thành xu thế được nhiều quốc gia hướng tới. Trong thời gian qua, chính sách thuế gián thu của Việt Nam cũng được sửa đổi nhằm bao quát các nguồn thu, khắc phục các bất cập hiện tại và trở thành công cụ quan trọng của Ðảng và Nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo hướng khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất - kinh doanh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2020 với đặc thù nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, chính sách thuế gián thu cũng được thay đổi linh hoạt nhằm giúp doanh nghiệp tăng khả năng chống chịu với các cú sốc.
1. Cải cách chính sách thuế gián thu linh hoạt
Theo “Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020”, hệ thống thuế gián thu giai đoạn 2011 - 2020 đã hoàn thiện, đảm bảo mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước; phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, công tác quản lý thuế đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện.
Với 3 lần sửa đổi, bổ sung1, thuế giá trị gia tăng (GTGT): (i) Giảm bớt các nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu thuế, tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất - kinh doanh; sắp xếp, điều chỉnh lại hợp lý các nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5% và 10% (chuyển một số nhóm hàng hóa từ thuế suất 5% sang áp dụng thuế suất 10%); (ii) Sửa đổi, bổ sung quy định ngưỡng doanh thu 1 tỷ đồng để áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ phù hợp với thông lệ quốc tế và chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2020; bổ sung quy định các doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ, cá nhân kinh doanh áp dụng phương pháp trực tiếp nộp thuế theo mức tỷ lệ trên doanh thu (có 4 mức tỷ lệ được áp dụng, giảm bớt mức tỷ lệ và bỏ quy định về địa bàn), nhằm đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện cho người nộp thuế nhỏ dễ dàng kê khai, tính toán số thuế phải nộp; (iii) Sửa đổi, bổ sung quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT đối với bán tài sản đảm bảo tiền vay; dịch vụ khám, chữa bệnh; dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật; hàng hóa, dịch vụ trong ngành nông nghiệp; (iv) Không thực hiện hoàn thuế GTGT đối với sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên, góp phần khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ trong việc chế biến sâu tài nguyên thiên nhiên.
Cũng với 3 lần sửa đổi2, mức thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đã gia tăng đối với những mặt hàng có hại cho sức khỏe như thuốc lá, rượu bia; đồng thời quy định giá tính thuế TTĐB được sửa đổi về là giá nhà nhập khẩu và nhà sản xuất trong nước bán ra, bổ sung quy định nhằm chống chuyển giá qua các khâu kinh doanh thương mại.
Hằng năm, Việt Nam đều thực hiện cắt giảm thuế suất thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu theo cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tại các hiệp định thương mại tự do (FTA) trong và ngoài ASEAN. Đến nay, Việt Nam đã thực hiện xong toàn bộ cam kết giảm thuế xuất khẩu với WTO Đối với các hiệp định FTA, Việt Nam ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết cho từng giai đoạn 3 năm.
Chính sách thuế tài nguyên đã được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề ra trong từng thời kỳ. Đối tượng miễn thuế đối với nước thiên nhiên dành cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp đã được chuyển sang đối tượng không chịu thuế; điều chỉnh tăng mức thuế suất thuế tài nguyên đối với nhóm khoáng sản như sắt, titan, vonfram, antimoan, đồng, đá, sỏi, cát, đất làm gạch, than, apatit phù hợp với hình hình thực tế; quy định rõ nguyên tắc xác định giá tính thuế tài nguyên để các địa phương thực hiện đồng nhất.
Mức thuế bảo vệ môi trường (BVMT) đối với các mặt hàng thuộc đối tượng chịu thuế đã được áp dụng phù hợp với điều kiện thực tế theo quy định tại Nghị quyết số 1269/2011/UBTVQH12; đối với mặt hàng xăng dầu đã được điều chỉnh 3 lần tại Nghị quyết số 888a/2015/UBTVQH13; Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14; Nghị quyết số 979/2020/UBTVQH14.
Ngoài ra, để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trước ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch Covid-19, từ đầu năm 2020, nhiều giải pháp về thuế gián thu đã được thực hiện nhằm tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, tái khởi động nền kinh tế như gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất cho các đối tượng gặp khó khăn; gia hạn thời hạn nộp thuế TTĐB đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước; miễn thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng khẩu trang y tế, nguyên liệu để sản xuất khẩu trang, nước rửa tay sát trùng...; đề xuất với Chính phủ điều chỉnh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
2. Một số kết quả đạt được
Nhờ chính sách động viên ngân sách nhà nước (NSNN) tiếp tục được hoàn thiện đã động viên hợp lý, kịp thời các nguồn lực từ sản xuất và nguồn lực từ tài nguyên, đất đai. Quy mô thuế gián thu ngày càng được mở rộng, tổng thu thuế gián thu (bao gồm thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế xuất - nhập khẩu, thuế BVMT, thuế tài nguyên) đạt bình quân khoảng 487.543 tỷ đồng (giai đoạn 2011 - 2019), gấp 3,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2010. Tỷ trọng thu thuế gián thu trung bình chiếm khoảng 47% tổng thu NSNN và khoảng 60,3% tổng thu thuế (giai đoạn 2001 - 2010, thuế gián thu chỉ chiếm khoảng 52,19% so với tổng thu thuế).
Trong thuế gián thu, đóng góp tích cực cho NSNN là thuế GTGT, tiếp đến là thuế TTĐB. Tỷ trọng thu từ thuế GTGT so với tổng thu thuế tăng nhanh từ 25,6% (giai đoạn 2001 - 2010) lên 32,2% (giai đoạn 2011 - 2019) và trở thành nguồn động viên ngân sách quan trọng nhất hiện nay. So với các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), mức động viên thu thuế GTGT so GDP ở Việt Nam cũng tương tự với mức trung bình của các nước OECD; so với các nước trong khu vực thì tỷ lệ này cũng ở mức tương đương hoặc cao hơn.
Tỷ trọng thuế TTĐB nội địa cũng ngày một gia tăng, từ trung bình 6% (giai đoạn 2001 - 2010) lên 6,6% (giai đoạn 2011 - 2019) so với tổng thu NSNN. Riêng đối với tổng thu từ thuế, tăng từ 7,24% lên 8,59%, do thuế TTĐB tăng đối với một số mặt hàng theo lộ trình.
Mặc dù tỷ trọng thu thuế BVMT còn thấp (5,1% so với tổng thu thuế trong giai đoạn 2016 - 2019), nhưng có ý nghĩa quan trọng trong điều tiết và sản xuất hướng tới tăng trưởng xanh hiện nay. Riêng thuế xuất - nhập khẩu, TTĐB hàng nhập khẩu, thuế tài nguyên có xu hướng giảm. Tổng thu thuế từ hoạt động xuất - nhập khẩu giảm từ 16,14% (giai đoạn 2001 - 2010) xuống còn 11,3% (giai đoạn 2011 - 2019); tỷ trọng thuế tài nguyên giảm từ 8,43% xuống 4,6% trong giai đoạn 2011 - 2019, thấp nhất trong 3 năm gần đây (2017, 2018, 2019), trung bình chỉ chiếm 3,5%. Mức đóng góp từ các nguồn thu phụ thuộc giảm dần cho thấy thu thuế ngày một bền vững hơn.
Cùng với đó, quản lý thuế nói chung, quản lý các sắc thuế gián thu nói riêng cũng được hoàn thiện theo hướng sửa đổi, bổ sung các quy định, góp phần cải cách hành chính thuế như: bãi bỏ quy định khống chế thời hạn (6 tháng) kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hóa đơn điều chỉnh bổ sung trong trường hợp có sai sót; quy định rõ thời gian hoàn thuế sau ít nhất 12 tháng có số thuế chưa được khấu trừ hết và sửa mức thuế tối thiểu được hoàn đối với đầu tư và xuất khẩu là 300 triệu (trước đây là 200 triệu đồng), góp phần khắc phục những bất cập của giai đoạn trước, giảm khó khăn cho quỹ hoàn thuế, chống lợi dụng, gian lận trong hoàn thuế, đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất trong nước đẩy nhanh việc đưa dự án vào hoạt động và quá trình lưu thông hàng hóa, giảm bớt thủ tục hành chính, giảm khối lượng hồ sơ hoàn thuế, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan thuế. Bên cạnh đó đã đẩy nhanh việc xây dựng và triển khai thí điểm hệ thống cấp hóa đơn điện tử có xác thực, giúp làm giảm chi phí, thời gian thông quan, góp phần xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
3. Một số vấn đề đặt ra
Mặc dù đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn tồn tại một số vấn đề đối với hệ thống thuế gián thu giai đoạn 2011 - 2020.
(i) Thuế GTGT: Số lượng nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế còn nhiều (25 nhóm) và không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp và làm tăng giá bán, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng; việc áp dụng các mức thuế suất hiện nay (gồm 3 mức 0%, 5%, 10%) đối với các nhóm mặt hàng còn chưa phù hợp, cần thiết phải nghiên cứu thu gọn mức thuế suất và xem xét điều chỉnh tăng mức thuế suất phổ thông; quy định về khấu trừ thuế, hoàn thuế còn bất cập ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
(ii) Thuế TTĐB: Diện chịu thuế còn hẹp, chưa bao quát được hết mặt hàng phải hạn chế tiêu dùng, các mặt hàng cần định hướng sản xuất hoặc điều tiết thu nhập như nước ngọt, trò chơi điện tử trực tuyến, kinh doanh trò chơi bình chọn, dự báo kết quả có thưởng thông qua nhà mạng, dầu, hàng tiêu dùng xa xỉ...; cần có chính sách khuyến khích hơn nữa việc sản xuất, sử dụng các sản phẩm, hàng hóa thân thiện môi trường (như ô tô điện, ô tô vừa chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện...)
(iii) Thuế xuất - nhập khẩu: Thuế suất thuế nhập khẩu có nhiều mức, phát sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện phân loại, áp mã thuế; chính sách ưu đãi miễn thuế đối với các dự án theo địa bàn, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư cần rà soát, sửa đổi để phù hợp với thực trạng phát triển kinh tế và mục tiêu khuyến khích thu hút đầu tư. Việc miễn thuế nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để gia công, sản xuất xuất khẩu cần xem xét điều chỉnh theo hướng nộp trước hoàn sau để đảm bảo công tác quản lý thuế công khai, minh bạch, tránh gian lận thương mại.
(iv) Thuế tài nguyên: Quy định về sản lượng tài nguyên tính thuế và giá tính thuế tài nguyên còn chưa đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, đơn giản, chưa đảm bảo khuyến khích các doanh nghiệp khai thác tài nguyên đầu tư chế biến sâu, nâng cao giá trị sản phẩm tài nguyên. Mức thuế suất thuế tài nguyên của một số loại tài nguyên đã ở mức trần hoặc sát mức trần trong khung thuế suất nên cần điều chỉnh nhằm khuyến khích sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả.
(v) Thuế BVMT: Đối tượng chịu thuế BVMT còn hẹp, thuế suất còn thấp chưa đủ mạnh để hạn chế các hoạt động sản xuất, tiêu dùng sản phẩm có hại đối với môi trường.
4. Định hướng sửa đổi trong thời gian tới
Trong thời gian tới, hệ thống chính sách về thuế gián thu cần hoàn thiện theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai, công bằng, trung lập và mở rộng cơ sở thuế nhằm tăng thu cho NSNN và điều tiết sản xuất, tiêu dùng.
(i) Điều chỉnh chính sách thuế tạo dư địa ngân sách bền vững.
Thuế GTGT: Điều chỉnh giảm số lượng các nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng từ 25 nhóm hiện nay xuống bằng các nước trong khu vực. Sửa đổi thuế suất thuế GTGT theo hướng giảm các đối tượng chịu mức thuế suất 5%, tiến tới sửa đổi về một mức thay vì 3 mức như hiện nay. Đồng thời rà soát để bảo đảm chính sách thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong nước, đảm bảo cạnh tranh với các sản phầm, hàng hóa nhập khẩu có tác động đến nông nghiệp, nông thôn. Trong dài hạn (sau năm thứ 5), nâng thuế suất chuẩn trong bối cảnh rà soát toàn diện và có kế hoạch tái cân bằng toàn bộ cơ cấu thuế). Theo kinh nghiệm quốc tế, thuế suất 12% là mức trung bình chung của châu Á (Lê Minh Tuấn, 2020).
Thuế TTĐB: Điều chỉnh tăng thuế suất thuế TTĐB đối với một số mặt hàng dịch vụ có lợi nhuận cao hoặc Nhà nước không khuyến khích hoạt động như thuốc lá, rượu, bia, gofl, xổ số, casino... Điều chỉnh thuế suất đối với thuốc lá, bia, rượu và ô tô; áp dụng thuế hỗn hợp là kết hợp của thuế phần trăm và thuế cố định đối với một số hàng hóa và dịch vụ. Bổ sung một số mặt hàng chịu thuế TTĐB nhằm điều tiết sản xuất, hạn chế tiêu dùng do không có lợi có sức khỏe như đồ uống có đường, nước ngọt có ga... hoặc nhằm điều tiết thu nhập như đồng hồ đeo tay cao cấp, nước hoa cao cấp, mỹ phẩm cao cấp... nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thuế tài nguyên: Bổ sung một số loại tài nguyên mới vào đối tượng chịu thuế như kho số, tần số vô tuyến điện, tên miền internet...; bổ sung quy định về thu cấp quyền khai thác khoáng sản (hiện nay quy định tại Luật Khoáng sản) vào đối tượng điều chỉnh của Luật Thuế tài nguyên để bảo đảm tính thống nhất.
Thuế BVMT: Bổ sung các đối tượng chịu thuế sau khi còn sử dụng phải xử lý, tiêu hủy gây tác hại đến môi trường (như xăm, lốp, ắc quy xe ô tô, xe máy; các loại hàng hóa làm từ nhựa không phân hủy, các mặt hàng điện tử có chứa thành phần độc hại khi thải ra môi trường...) để phù hợp với thực tiễn.
(ii) Nghiên cứu xây dựng, bổ sung luật thuế môi trường đối với hàng hóa gây ô nhiễm môi trường khi sản xuất, sử dụng và sau khi sử dụng (ắc quy chì, hóa chất, săm lốp ô tô, thiết bị điện tử…), nghiên cứu xây dựng thuế đối với khí thải, tính theo lượng khí thải ra như CO2, SO2...
(iii) Tăng cường công tác quản lý thu NSNN, hạn chế tình trạng nợ đọng, chống thất thu thuế; giảm hoặc bỏ việc chuyển lỗ đối với những lĩnh vực không khuyến khích đầu tư phù hợp thông lệ quốc tế; thực hiện các tiêu chuẩn phòng, chống chuyển giá quốc tế chống xói mòn nguồn thu (BESP); tham gia tích cực các hiệp định phòng chống chuyển giá xói mòn nguồn thu; tăng cường thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thu hồi nợ thuế, ngăn chặn và xử lý các hành vi gian lận, trốn thuế.
1. Ban Chính sách tài chính công (2020), Đánh giá kết quả thực hiện thu NSNN giai đoạn 2011 - 2019 và kiến nghị giải pháp.
2. Lê Minh Tuấn (2020), Chính sách thuế tại Việt Nam - Một số đánh giá ban đầu và khuyến nghị chính sách.
3. Nguyễn Ngọc Tuyến (2020), Đánh giá, tổng kết thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
4. Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 18/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Tài chính đến năm 2020.
Bài đăng trên Thông tin Phục vụ lãnh đạo số 5 kỳ 1 tháng 3/2021
*1 Theo các Luật số 31/2013/QH13 ngày 19/6/2013, Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016.
*2 Sửa đổi, bổ sung vào các năm 2014, 2015, 2016 theo các Luật số 70/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Luật số 106/2016/QH13.