- Căn cứ Khoản 2 Điều 19 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP
ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định về xử lý hoá đơn sai sót;
- Căn cứ Khoản 1 Điều 7 Thông tư số 78/2021/TT-BTC
ngày 17 tháng 9 năm 2021 của Bộ Tài chính quy định về xử lý hóa đơn điện tử, bảng
tổng hợp dữ liệu hóa đơn điện tử đã gửi cơ quan thuế có sai sót trong một số
trường hợp;
- Căn cứ Nghị định 130/2018/NĐ-CP ngày 27 tháng 9 năm
2018 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành luật giao dịch điện tử về chữ ký
số và dịch vụ chứng thực chữ ký số
+ Tại Điều 8 quy định về giá trị pháp lý của chữ ký số:
“1. Trong trường hợp pháp luật quy định
văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đối với một thông điệp dữ liệu được xem là
đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bằng chữ ký số và chữ ký số đó được đảm
bảo an toàn theo quy định tại Điều 9 Nghị định này.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định
văn bản cần được đóng dấu của cơ quan tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông
điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký số
cơ quan, tổ chức và chữ ký số đó được đảm bảo an toàn theo quy định tại Điều 9
Nghị định này.…”
+ Tại Điều 9 quy định về điều kiện đảm bảo an toàn cho chữ ký số
“Chữ ký số được xem là chữ ký điện tử an toàn khi đáp ứng các điều
kiện sau:
1. Chữ ký số được tạo ra trong thời gian chứng thư số có hiệu lực
và kiểm tra được bằng khóa công khai ghi trên chứng thư số đó.
2. Chữ ký số được tạo ra bằng việc sử dụng khóa bí mật tương ứng
với khóa công khai ghi trên chứng thư số do một trong các tổ chức sau đây cấp:
a) Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia;
b) Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng
Chính phủ;
c) Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng;
d) Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng của
các cơ quan, tổ chức được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn cho
chữ ký số chuyên dùng được quy định tại Điều 40 của Nghị định này.
3. Khóa bí mật chỉ thuộc sự kiểm soát của người ký tại thời điểm
ký.…”
Căn cứ các
quy định nêu trên, theo nội dung trình bày tại văn bản. Cục thuế trả lời nguyên
tắc cho Độc giả như sau:
Trường hợp
công ty của Độc giả xử lý hoá đơn sai sót theo quy định tại Khoản 2 Điều 19 Nghị
định số 123/2020/NĐ-CP, Khoản 1 Điều 7 Thông tư số 78/2021/TT-BTC, có thực hiện
lập văn bản thoả thuận giữa hai bên về việc hoá đơn có sai sót và việc ký kết
văn bản thoả thuận này được thực hiện bằng chữ ký số nếu đáp ứng đủ điều kiện về
đảm bảo an toàn chữ ký số theo quy định tại điều 9 Nghị định số 130/2018/NĐ-CP
thì được xem là văn bản có giá trị pháp lý.
Về đăng ký sử
dụng chữ ký số điện tử: Theo quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành, chỉ yêu
cầu đăng ký chữ ký số đối với chữ ký số ký hoá đơn điện tử, đối với chữ ký số
ký kết văn bản giữa các đơn vị không yêu cầu phải đăng ký với cơ quan thuế. Đề
nghị Độc giả đảm bảo điều kiện chữ ký số tại đơn vị theo quy định tại Nghị định
số 130/2018/NĐ-CP.
Về định dạng
văn bản ký kết: Nghị định số 123/2020/NĐ-CP chỉ quy định về định dạng đối với
hoá đơn điện tử là định dạng XML, không quy định chi tiết định dạng văn bản thoả
thuận hoá đơn có sai sót. Độc giả rà soát văn bản quy phạm pháp luật về hoá
đơn, đảm bộ đầy đủ các hồ sơ theo quy định hiện hành về xử lý hoá đơn sai sót.
Trường hợp
còn vướng mắc, Độc giả gửi văn bản đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp công ty Độc
giả để được hỗ trợ giải đáp.
Trên đây là ý kiến của Cục Thuế tỉnh Bình Dương trả lời cho Độc giả biết để
thực hiện./