1. Về mã số hàng hóa:
Căn cứ khoản 1 Điều 26 Luật Hải quan số
54/2014/QH13 ngày 23/06/2014 thì: Khi phân loại hàng hóa phải căn cứ hồ sơ hải
quan, tài liệu kỹ thuật và các thông tin khác có liên quan đến hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu để xác định tên gọi, mã số của hàng hóa theo Danh mục hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam.
Tại công văn nêu trên, Công ty chỉ nêu tên hàng
hóa, kích thước, vật liệu thép mạ kẽm và bao gồm tấm lót nhựa PE, tuy nhiên
chưa rõ phần mái làm bằng vật liệu gì, ngăn giữa các ổ là vật liệu gì, thành
phần chính của hàng hóa, ... không có tài liệu kỹ thuật của nhà sản xuất, không
có mẫu hàng hóa thực tế để đối chiếu, làm cơ sở xác định mã số. Do vậy, Tổng
cục Hải quan chưa đủ cơ sở xem xét hướng dẫn áp mã số cụ thể.
Đề nghị Công
ty căn cứ thực tế hàng hóa nhập khẩu, tài liệu kỹ thuật hoặc các tài liệu liên quan để
xác định bản chất mặt hàng nhập khẩu, đối chiếu với mô tả hàng hóa tại Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam để xác định, khai báo mã số phù hợp và liên hệ trực tiếp với cơ quan hải quan nơi dự định làm thủ tục hải quan để
được hướng dẫn cụ thể.
2. Về thuế giá trị gia tăng
(GTGT)
Tại công văn số 1677/BTC-TCT
ngày 29/01/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế GTGT đối với máy móc, thiết
bị thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng chuyên dùng phục vụ sản
xuất nông nghiệp, theo đó, điểm e khoản 1 công văn có nêu “các máy, thiết bị
chăn nuôi gà” bao gồm “ổ đẻ tự động”.
Tuy nhiên, mặt hàng Công ty
TNHH Giống gia cầm Minh Dư nhập khẩu có tên “Ổ đẻ thủ công” chưa được nêu tên
cụ thể tại công văn số 1677/BTC-TCT nêu trên. Do đó, đề nghị Công ty gửi văn bản về
Tổng cục Thuế (là cơ quan tham mưu cho Bộ Tài chính ban hành công văn số
1677/BTC-TCT) để được giải đáp về trường hợp hàng hóa nhập khẩu của công ty có
thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng theo hướng dẫn tại công văn số
1677/BTC-TCT hay không.